Tiểu Nguyệt của Hứa Tú Lan - Chương 1
1.
Ngày tôi gặp Hứa Tú Lan ở tiệm thịt chó, tôi thực sự nghĩ mình sắp chết.
Trong thùng xe tải bẩn thỉu, từng nhóm chó được chở đến.
Chúng có đủ hình dáng và màu lông khác nhau, nhưng ánh mắt nào cũng ánh lên nỗi sợ hãi.
Có con cổ còn đeo thẻ tên, có con thì lè lưỡi, vui mừng như thể con người sẽ cứu chúng và từ đây chúng không còn phải lang thang đói khát nữa.
“Tất cả đều cạo lông rồi đem đi chặt thịt!” Chủ tiệm thịt chó nâng cao cái bụng phệ, vừa đếm tiền, vừa xoa tay, cười đến nỗi thịt mỡ rung rinh.
Không biết bao nhiêu con chó vui mừng được đưa đi, rồi ngay sau đó là những tiếng tru lên thê lương vang dội.
Khi đến lượt tôi, chủ tiệm xách gáy tôi lên, khịt mũi tỏ vẻ coi thường.
“Bọn buôn chó này đúng là phát cuồng vì tiền rồi, mang con chó bé tẹo này đến lừa ta.”
Ông ta hất tôi xuống nền xi măng một cái thật mạnh, tôi đau đớn kêu lên thảm thiết.
Ngay khi thấy chiếc giày da của chủ tiệm sắp đạp thẳng lên người mình.
Thì một giọng nói vang lên, ngăn cản hành động giẫm chết tôi.
“Bố! Con vừa hay cần một con chó, cho con con này đi.”
Đó là đứa con trai nhỏ của ông chủ, tay cầm chiếc ná, cười vui vẻ.
Tôi nhìn nó với ánh mắt cảm kích.
Giây phút ấy, tôi thực sự nghĩ mình đã gặp người tốt.
2.
Thằng bé dùng một sợi dây thừng buộc chặt chân tôi, treo ngược lên cây, trói cả tay lẫn chân tôi lại.
Rồi lấy ná bắn bi thủy tinh, dốc hết sức nhằm vào tôi.
Những viên bi thủy tinh đập mạnh vào mắt, vào bụng tôi.
Đau đớn đến mức tôi rên rỉ không ngừng, càng không ngừng giãy dụa.
Tôi càng kêu đau đớn, thằng bé càng hứng thú.
Nó vỗ tay cười lớn: “Chơi vui! Chơi vui! Thử nghiệm trên chó sống đúng là cách kiểm tra trình độ bắn ná của mình!”
Tôi bị bắn đến kiệt sức, chỉ còn phát ra những tiếng rên rỉ yếu ớt.
Tuyệt vọng từng chút một bao trùm lấy tôi…
Ngay khi tôi nghĩ mình chắc chắn sẽ chết, Hứa Tú Lan bất ngờ xuất hiện.
Bà ấy đi ngang qua tiệm thịt chó, chứng kiến hành vi nghịch ngợm ác độc của thằng bé mà bị dọa đến hãi hùng khiếp vía.
Tay trái xách giỏ trứng, tay phải túm lấy thằng bé, dữ dằn như một bà cô khó tính.
“Sao con nít gì mà chẳng có chút giáo dục nào vậy? Không có tí lòng thương sao?”
Thằng bé nhổ một bãi nước bọt lên chiếc áo vải xanh mới của Hứa Tú Lan.
“Bà già, bà giả vờ làm người tốt gì chứ? Nếu bà có lòng thương, thì có giỏi thì mua con chó này đi!”
Hứa Tú Lan nhìn tôi một cái, siết chặt giỏ trứng trong tay: “Con chó này bao nhiêu tiền?”
Mắt thằng bé láo liên: “Hai đồng! Một xu cũng không được thiếu!”
Vào những năm 80, một đồng có thể mua được một cân thịt heo hoặc hai cân bột mì.
Nhưng chẳng ai dại dột bỏ tiền ra mua chó.
Hứa Tú Lan lại nhìn tôi, không nói gì.
Thằng bé bật cười ha hả: “Đồ bà già! Làm bộ làm tịch gì chứ? Ngay cả con chó cũng không mua nổi!”
Tôi nhìn Hứa Tú Lan, ư ử kêu vài tiếng.
Bà ấy lấy ra hai đồng từ trong túi áo, dứt khoát ném thẳng vào mặt thằng bé.
Thằng bé nhận tiền, vui mừng nhảy lên.
Nó lại chạy đến chắn đường Hứa Tú Lan.
“Từ từ! Con chó này bà không được mang đi!”
“Sao lại không? Ta đã trả tiền rồi!”
“Giờ giá đã tăng rồi.” Thằng bé cười gian, ngang nhiên nói, “Con chó này bây giờ là bốn đồng.”
Hứa Tú Lan cố gắng kìm nén, tay trái giữ chặt tay phải, mới ngăn được không vung cho thằng bé một cái tát.
Bà ấy bước tới, cởi dây thừng trói tôi, xem thử tôi còn thở không.
Hứa Tú Lan quay lưng lại, lấy từ trong lớp áo lót ra một cái túi vải, lục lọi mấy đồng tiền lẻ nhăn nhúm.
Sau đó, bà vung tay rải tiền về phía đầu ngõ.
Những đồng tiền lẻ bay tứ tán ra đầu ngõ.
Thằng bé kêu ré lên: “Tiền của tôi!” rồi chạy đi nhặt.
Hứa Tú Lan ôm tôi vào lòng, vỗ nhẹ lên tôi, trách: “Thứ bồi tiền hàng.”
Trong ngực của bà thật ấm, bước chân thật vững vàng.
Bà từng bước từng bước đưa tôi về nhà.
Tôi gắng ngẩng đầu lên trong lòng bà, muốn ghi nhớ gương mặt bà.
Khi đó, tôi nghĩ.
Không phải con người nào cũng xấu xa.
Ít nhất, Hứa Tú Lan là một người tốt.
3.
Hứa Tú Lan điều hành một tiệm tạp hóa nhỏ ở thôn Ngô Đồng.
Bà ấy thật thà, bán đúng giá, không bao giờ thiếu cân, bớt lạng.
Mọi người đều vui vẻ đến tiệm của bà mua đồ.
Ở chính giữa tiệm tạp hóa của Hứa Tú Lan, treo một bức ảnh màu khổ lớn mà bà ấy đã tốn không ít tiền để rửa ra, đóng khung trang trọng, để bất kỳ ai vào tiệm cũng có thể nhìn thấy ngay lập tức.
Trong ảnh, Tiểu Nguyệt có đôi má đỏ hồng, khuôn mặt nhỏ nhắn, đôi mắt to tròn, khi cười còn có một lúm đồng tiền bên má trái.
Mỗi khi có người đến mua đồ, Hứa Tú Lan đều nhét cho họ một tấm thiệp nhỏ.
Trên thiệp cũng là tấm ảnh đó.
Dòng chữ nhỏ ghi: “Ngô Tiểu Nguyệt, nữ, sinh ngày 21 tháng 12 năm 1968, mất tích ngày 11 tháng 9 năm 1973 tại tiệm tạp hóa của Hứa Tú Lan ở thôn Ngô Đồng, lúc mất tích mặc áo đỏ, quần nhung vàng, bên cánh tay có một vết chàm to bằng đồng xu, ai có manh mối sẽ được hậu tạ.”
Tấm thiệp mang theo niềm hy vọng của Hứa Tú Lan, lan truyền khắp từng ngóc ngách của thôn Ngô Đồng.
Lần đó, có một vị khách đến mua kẹo, Hứa Tú Lan lại đưa cho ông ta một tấm thiệp như thường lệ.
Vị khách ngập ngừng nói: “Bà Hứa, Tiểu Nguyệt đã mất tích mười hai năm rồi, sao bà vẫn không từ bỏ?”
Hứa Tú Lan, người trước nay luôn niềm nở với khách hàng, lập tức sầm mặt.
Bà giật lấy gói kẹo trong tay khách, trả lại tiền, nét mặt u ám.
“Anh nói gì vậy! Tiểu Nguyệt là cháu ruột của tôi, tôi không tìm nó thì ai tìm?”
“Tôi nói cho anh biết! Dù có phải tìm đến chết, tôi cũng sẽ tiếp tục tìm!”
“Chỉ cần Hứa Tú Lan này còn sống một ngày, Tiểu Nguyệt sẽ có nhà mà về!”
“Đi đi! Hôm nay tôi không bán kẹo nữa!”
Người khách hoảng hốt bỏ chạy.
Hứa Tú Lan hít một hơi thật sâu, ngồi một mình trong cửa tiệm, bỗng chốc mất đi vẻ nóng nảy vừa rồi.
Bà ấy ôm tôi vào lòng, với vẻ mặt hung dữ mà đe dọa.
“Sống cho tử tế vào! Lớn thêm chút, có thêm thịt, đợi đến khi Tiểu Nguyệt của ta về, ta sẽ nấu ngươi thành món canh thịt chó để bồi bổ cho con bé!”
Sau đó, bà ngẩng lên nhìn tấm ảnh của Tiểu Nguyệt một lúc, rồi bất chợt thở dài, rút một cây kẹo ra, bẻ đôi rồinhét một nửa vào miệng tôi.
Hứa Tú Lan vuốt ve bộ lông của tôi, dịu dàng nói.
“Cháu gái bảo bối của ta tên là Tiểu Nguyệt.”
“Ngươi là do ta cứu về, cũng phải gọi ta một tiếng ‘Bà ngoại’.”
Bà ấy chạm vào đầu tôi, trịnh trọng tuyên bố.
“Tinh Tinh, từ bây giờ ngươi sẽ là Hứa Tinh Tinh.”
4.
Hứa Tú Lan nuôi tôi đến mượt mà, bộ lông sáng bóng, mắt sáng rực.
Bà thường làm hai việc yêu thích nhất mỗi ngày.
Một là mỗi tuần đều ghé đồn cảnh sát, để hỏi thăm tung tích của Tiểu Nguyệt.
Dù trời mưa gió, hay sấm chớp đùng đùng, cũng không bao giờ thay đổi.
Thứ hai là mua quà.
Hứa Tú Lan là người tiết kiệm.
Đối với bản thân, chỉ cần một miếng bánh hấp, một ngụm nước nguội là có thể cầm cự qua ngày.
Nhưng khi chuẩn bị quà cho Tiểu Nguyệt, bà ấy đã cẩn thận lựa chọn vô số món quà lớn nhỏ, từ chiếc xe rung lắc mà trẻ con thích, khăn quàng đỏ, đến chiếc vòng ngọc, khóa bình an, hay mặt dây chuyền vàng mà các cô bé yêu thích.
Mỗi món quà bà đều chuẩn bị kỹ lưỡng, coi như là quà sinh nhật bù đắp cho những năm tháng đã mất tích của Tiểu Nguyệt.
Khi tôi lang thang khắp thôn, đã từng nghe thấy mấy bà già ở đầu thôn đang tám chuyện.
Bọn họ tặc lưỡi, nói to như diễn thuyết: “Hứa Tú Lan là đáng đời! Lúc Tiểu Nguyệt mất tích, con bé mới mấy tuổi? Một đứa nhỏ mới sáu tuổi, đặc biệt từ thành phố về đây, chỉ để đoàn tụ trung thu cùng Hứa Tú Lan thôi.”
“Hứa Tú Lan lúc đó còn cưng nựng cháu ghê lắm, ôm con bé hôn hết lần này đến lần khác! Kết quả chỉ vì quay đi lấy cái kẹo cây, quay lại thì Tiểu Nguyệt đã biến mất!”
“Cũng không biết nghĩ sao mà bà ấy lại đưa cho con bé hai xu, bảo nó tự đi mua kẹo mạch nha từ người bán rong. Đến khi tỉnh táo lại thì người đã đi mất tăm rồi!”
“Làm sao bà ấy không hối hận cho được? Vì chuyện này mà con gái bà ấy cắt đứt quan hệ, đến mức không nhìn mặt nhau nữa, cuối cùng chẳng có ai chăm lo lúc tuổi già! Một đứa con gái, sống sót được là may rồi! Biết đâu con bé đã bị bán đi làm vợ nhỏ người ta rồi cũng nên! Tôi nói thật, Hứa Tú Lan đúng là khi còn trẻ quá ngang bướng, giờ già rồi mới phải gánh hậu quả!”
Tôi đứng ngây ra một lúc, cái đuôi không còn đong đưa nữa.
Tôi sủa ầm lên, điên cuồng lao vào cắn gấu quần của họ.
Không ai được phép nói xấu Hứa Tú Lan!
Một câu xấu cũng không được nói!
Tôi nhe răng nhếch miệng, gầm gừ đầy đe dọa, cơ thể căng cứng, phát ra những tiếng gầm gừ đầy uy hiếp.
“Ối trời ơi! Ối trời ơi! Hứa Tú Lan là đồ điên, chó bà ấy nuôi cũng là đồ chó dại!”
Mấy bà sợ hãi, run rẩy đỡ nhau, đôi chân nhỏ vội vàng rút lui, cố gắng tránh xa tôi.
Tôi co người lại, lông dựng đứng, định lao tới dọa họ thêm.
Nhưng bỗng nghe tiếng gọi quen thuộc từ dưới gốc cây ngô đồng vọng tới.
“Hứa Tinh Tinh—”
Tôi quay đầu lại.
Thấy Hứa Tú Lan đứng dưới gốc cây, đôi mắt đẫm lệ long lanh.
Giọng bà nghẹn ngào.
“Tinh Tinh, về nhà ăn cơm thôi.”
5.
Lần đầu tiên có tin tức về Tiểu Nguyệt là vào một buổi chiều bình thường, trời đầy nắng.
Tôi vừa ăn xong cơm chó, nằm bên cạnh Hứa Tú Lan, cảm giác hơi buồn ngủ.
Hứa Tú Lan ngồi tựa vào ghế mây, phe phẩy chiếc quạt nan lớn, híp mắt ngủ gật.
“Cộc cộc!”
Hai người đàn ông trẻ xa lạ, mình trần, một người gầy, một người mập, cưỡi một chiếc xe máy đắt tiền hiếm thấy thời bấy giờ, dùng tay gõ cộc cộc lên quầy của Hứa Tú Lan.
Hứa Tú Lan mở mắt ra, còn đang ngái ngủ: “Muốn mua gì?”
“Hai bao thuốc.” Người đàn ông béo giọng khàn khàn, “Lấy loại đắt nhất.”
Hứa Tú Lan lấy hai bao thuốc, theo thường lệ đưa kèm một tấm thiệp của Tiểu Nguyệt cho họ.
Người đàn ông gầy cầm bao thuốc, nhấc tấm thiệp lên nhìn kỹ, đột nhiên nói: “Tôi biết cô bé này.”
Ánh mắt Hứa Tú Lan lập tức sáng lên, bà gần như lao tới, nhìn chằm chằm người đàn ông, giọng vì căng thẳng mà trở nên bén nhọn.
“Thật sao? Cậu nhìn kỹ mặt cháu gái tôi chưa? Giờ con bé ở đâu rồi?”
Người đàn ông gầy lắc lắc hai bao thuốc trong tay: “Thuốc lá này?”
“Lấy đi mà hút! Chỉ cần tìm được Tiểu Nguyệt của tôi, làm gì cũng được!” Hứa Tú Lan lại lấy một nắm kẹo, nhét mạnh vào tay người đàn ông.