Thập Lục Nương - Chương 14
14
Vào ngày ta và Nguỵ Chiêu thành hôn, cả kinh thành Thượng Kinh đều bật cười.
Nguỵ đại thiếu gia, người từng kiêu ngạo, giờ thua cả một con gà rừng tàn phế, cuối cùng chỉ cưới một nha hoàn nhóm lửa nấu cơm làm thê tử. Cô nương ấy tên là Thập Lục, đến một cái tên hay cũng không có, nghe như kiểu A Mèo A Chó.
Nhưng đại thiếu gia cứ như không nghe thấy những lời cười nhạo đó, cưỡi ngựa cao to, đi ba vòng quanh thành.
Từ sau khi xảy ra chuyện trong triều đình, hành sự của ngài ấy luôn rất kín đáo. Nhưng lần duy nhất phô trương chính là cưỡi ngựa diễu phố để cưới ta.
Tiệc cưới chỉ bày hai bàn, mời toàn người trong nhà.
Đó là ý của ta.
Đại thiếu gia luôn cảm thấy ta bị thiệt thòi, nhưng ta lại không thấy vậy.
Thành hôn mà, chỉ cần mời những người thân thiết nhất là được rồi. Người ngoài chỉ xem náo nhiệt, thực lòng chúc phúc chúng ta, liệu có được bao nhiêu?
Lễ cưới diễn ra rất thuận lợi, chỉ có chút trục trặc khi đổi cách xưng hô.
Trục trặc này là do nhị thiếu gia gây ra. Ngài ấy đặc biệt xin phép nghỉ từ quân doanh trở về.
Lâu ngày không gặp, ngài ấy đã đen hơn, thô ráp hơn, dáng vẻ cũng cường tráng hơn.
Gió Tây Bắc đã mài giũa đi sự kiêu ngạo của một công tử sĩ tộc trên người ngài ấy, biến ngài thành một người trầm tĩnh, sâu lắng, tựa như một thanh kiếm giấu lưỡi.
Bà mối bưng trà lên, ta đưa trà cho ngài ấy, bắt chước dáng vẻ của Nguỵ Chiêu mà gọi ngài là “Nhị đệ”.
Nguỵ Lăng nhận lấy trà, không thèm nhìn ta một cái, chỉ cúi đầu uống một hơi rồi đi thẳng.
Thái độ như vậy khiến ta nhớ lại ngày ngài ấy mới trở về.
Hôm ấy ta gặp ngài trong hoa sảnh, rất vui mừng. Chưa kịp chào hỏi, đã bị ngài ấy dùng một tay giữ chặt vào tường.
Ngài ấy áp sát ta, ánh mắt khó đoán, trầm giọng hỏi: “Thập Lục… ngươi chưa từng nghĩ đến tương lai cùng ta sao?”
Ta hỏi: “Tương lai gì?”
Nhị thiếu gia không nói gì thêm, buông ta ra rồi rời đi.
Ta mơ hồ cảm thấy nhị thiếu gia có chút tình ý với mình, nhưng lại cho rằng mình nghĩ quá nhiều. Hai huynh đệ nhà họ Nguỵ đều thích một nha hoàn nhóm lửa như ta, liệu có thể đến mức ấy không?
Nghĩ đi nghĩ lại, ta thấy nhị thiếu gia thật kỳ lạ.
Cho đến khi thấy lễ vật của ngài ấy chỉ là năm lượng bạc, ta lại nghĩ, có lẽ mình đoán đúng một chút.
Nhưng chuyện này, nếu ngài ấy không nói, ta làm sao tiện hỏi?
Thành thân rồi, phải quản gia.
Ta hiểu rõ, trong lòng phu nhân, vị trí của ta nhiều lắm cũng chỉ là một tiểu thiếp, nhưng phu nhân không thắng được đại thiếu gia. Vì vậy, đối mặt với phu nhân, ta luôn có chút chột dạ.
Tất nhiên, với sự điềm đạm của phu nhân, dù không hài lòng, bà ấy cũng không nói ra. Bà mang sổ sách đến, muốn dạy ta tính toán.
Ta nói: “Cái này con biết rồi.”
Phu nhân lại muốn dạy ta làm thơ.
Ta nói: “Cái này con cũng biết một ít…”
Phu nhân vừa ngạc nhiên vừa vui mừng: “Con học mấy thứ này từ đâu?”
Ta đáp: “Đại thiếu gia đã dạy con.”
Phu nhân trầm ngâm một lát rồi nói: “Chiêu nhi chắc hẳn rất thích con…”
Khi đó ta mới sực hiểu, hóa ra đại thiếu gia đã vì ta mà sắp đặt từ lâu rồi.
Thời gian trôi qua như nước chảy, chớp mắt đã vụt khỏi kẽ tay.
Đại hoàng tử không biết phạm lỗi gì, bị giam cầm, triều đình lại trải qua một trận thanh trừng.
Cuối cùng, Tứ hoàng tử lên ngôi Thái tử. Hoàng thượng đã hoàn toàn không lâm triều nữa, mọi người đều biết Tứ hoàng tử chính là Hoàng đế tương lai.
Sau khi Tứ hoàng tử trở thành Thái tử, Nguỵ Chiêu đột nhiên nhàn rỗi, mỗi ngày thưởng hoa, pha trà, thoải mái vô cùng.
Chiến sự ở Tây Bắc đã kết thúc, Nguỵ Lăng lập được chiến công, trở về kinh nhận phong thưởng. Những gia tộc trước đây xa cách với nhà họ Nguỵ bỗng chốc lại thân thiết, tới thăm Nguỵ Lăng đông nghịt, gọi nào là “hiền đệ thế tử”, thân thiết không để đâu cho hết.
Nhưng nhị thiếu gia không mấy để tâm đến họ, giờ ngài ấy không thích cười, cũng ít nói, lại càng không để ý đến ta. Ngài ấy chỉ ở lại phủ vài ngày rồi đi.
Hôm rời đi, Nguỵ Chiêu đích thân tiễn đến trạm dịch. Không biết hai người nói gì với nhau, chỉ thấy Nguỵ Chiêu về phủ, đứng bên cửa sổ thổi tiêu suốt cả đêm.
Ta hỏi chàng: “Có phải thiếp đã làm sai chuyện gì không?”
Nguỵ Chiêu chỉ xoa đầu ta. Rồi có một người đến tìm Nguỵ Chiêu.
Người ấy là một người không ai ngờ tới: Đích tiểu thư của phủ Vĩnh Xương Bá, từng đính hôn với chàng ấy – Trần Uyển.
Nàng ta đến tìm Nguỵ Chiêu, nghe nói là vì chuyện của phu quân nàng ta.
Cả nhà đại nhân Thượng thư đã sụp đổ trong cuộc thanh trừng triều đình lần này. Nam đinh từ mười bốn tuổi trở lên đều bị lưu đày.
Trần Uyển quỳ trước cổng phủ nhà họ Nguỵ, gây nên bao lời bàn tán của người qua đường.
Ta thấy khó chịu trong lòng, nên cho nàng ta vào.
Vừa vào, nàng ta đã khóc như mưa, quỳ xuống trước mặt Nguỵ Chiêu, níu lấy vạt áo chàng ấy, nói rằng nguyện làm nô bộc, chỉ xin chàng tha cho phu quân nàng ta.
Nguỵ Chiêu lạnh nhạt nói: “Vương phu nhân có lẽ đã cầu sai người rồi. Nguỵ Chiêu ta là kẻ vô dụng, đâu có bản lĩnh như thế?”
Trần Uyển khóc lóc: “Những người khác chẳng biết gì, nhưng phủ Vĩnh Xương Bá làm sao không biết. Sau lưng Thái tử, đều là đại nhân ngài mưu tính, giờ đây ngài chính là người đầu tiên được Thánh thượng tin dùng… Năm đó từ hôn, ngàn sai vạn sai đều là lỗi của Trần Uyển, xin đại nhân đừng giận lây sang phu quân của ta.”
Ta giật mình kinh ngạc, thì ra những ngày trước đây Nguỵ Chiêu bận rộn là vì chuyện này?
Nhưng mặc Trần Uyển nói thế nào, Nguỵ Chiêu vẫn không nhận, chàng cứng rắn như sắt, chỉ khước từ rằng bản thân là một kẻ vô dụng.
Bề ngoài chàng ấy quả thật không có chức tước gì, cuối cùng Trần Uyển đành bất lực rời đi. Trần Uyển vừa đi, Nguỵ Chiêu lập tức đến bên ta.
“Thập Lục, vừa nãy nàng ta chỉ nói nhảm, nàng đừng tin một lời nào.”
Ta hiểu chuyện đáp: “Thiếp đương nhiên không tin nàng ta, nhưng… phu quân nàng ta thực sự không thể cứu được sao?”
Nguỵ Chiêu nói: “Không phải ta giận lây phu quân nàng ta, nhưng Hộ Bộ thất thoát ngân khố, Thượng thư đại nhân dám tham cả quân lương Tây Bắc… chuyện này không phải ta có thể cứu vãn.”
Ta gật đầu: “Hiểu rồi. Đây là ‘nhiều lần làm việc ác thì tự diệt vong’, thấy hắn dựng nhà cao, giờ lại thấy nhà sụp đổ.”
Nguỵ Chiêu cười khẽ: “Nói gì nàng cũng tin? Không sợ ta thực sự cố ý trả thù sao?”
Ta cũng bật cười: “Đại thiếu gia nhà ta là người tốt, không phải loại người như thế.”
“Còn gọi đại thiếu gia?”
“Ừm… phu quân?”
Nguỵ Chiêu kéo ta vào lòng, đôi môi ấm áp áp xuống, đến khi kết thúc, hơi thở chàng ấy đã không còn ổn định.
Ta tưởng chàng ấy sẽ làm gì, nhưng chàng chỉ kéo lại cổ áo ta rồi rời đi. Chúng ta chưa từng viên phòng, chàng ấy luôn nói ta còn nhỏ tuổi.
Nhưng ta đã đến tuổi cập kê rồi…
Sau khi Tứ hoàng tử lên ngôi, phong cho Nguỵ Chiêu chức quan nhị phẩm.
Ta sau này mới biết, ngày ấy cha ta được điều về kinh, chính là nhờ Nguỵ Chiêu âm thầm giúp đỡ. Ta nhận được không ít thiệp mời dự tiệc từ các tiểu thư quý tộc.
Không ai còn dám nhắc chuyện ta từng là một nha hoàn nhóm lửa nữa, họ kính trọng ta, tôn trọng ta. Chỉ cần ta hơi nhíu mày, liền có các tiểu thư nhỏ giọng hỏi ta có phải thân thể không khỏe không. Nhưng như thế ta lại càng không thoải mái, thấy lạ lẫm.
Cả kinh thành Thượng Kinh đều ngưỡng mộ số mệnh của ta – phu quân trẻ tuổi đã giữ vị trí cao trong triều, trên đời này còn có chuyện gì tốt hơn nữa?
Những buổi tiệc của các quý phu nhân, nói thật ta không thích tham gia lắm. Ngồi đó toàn là các tiểu thư quyền quý, họ nói về ly thủy tinh vùng Tây Vực, về thêu thùa ở Tô Châu, về những bài từ khúc mới sáng tác của các đại gia, và hơn hết, là nói về Nguỵ Chiêu.
Họ bàn xem chàng ấy thích kiểu nữ nhân như thế nào. Còn dò hỏi ta về sở thích của chàng.
Ta nghĩ, có lẽ mình là một nữ nhân dễ ghen tị, bởi vì ta ngày càng không vui. Nhưng ở kinh thành Thượng Kinh này, có nam nhân làm quan nào mà không tam thê tứ thiếp?
Ta chỉ là một nha hoàn nhóm lửa, nấu cơm, được thiếu gia dạy dỗ, biết đọc chữ, tính toán bằng bàn tính đã là điều không dễ dàng gì, nói gì đến chuyện múa bút làm thơ, cầm kỳ thi họa.
Ta định chọn cho Nguỵ Chiêu hai quý thiếp, như thế cũng có lợi cho đường công danh của chàng.
Một mặt ta đau lòng, một mặt lại không thể không làm điều này.
Cuối cùng, khi chàng đi Dương Châu lo công việc, ta đã hẹn bà mối nổi tiếng nhất kinh thành đến một quán trà. Nếu chàng nhất định phải nạp thiếp, thì thà ta chủ động, chọn người mà ta thấy ưng ý còn hơn.
Ai ngờ, đến lúc ấy, ta lại bị Nguỵ Chiêu – người đáng lẽ đang ở Dương Châu – chặn ngay trước cổng nhà.
Chàng ấy đột ngột xuất hiện, dáng vẻ phong trần mệt mỏi, tức giận đến mức cả người run lên.
“Hôm nay nàng dám bước ra khỏi cửa thử xem?”
Ta giật mình kinh hãi, theo phản xạ hỏi: “Chàng… sao lại về rồi?”
“Không về, đợi nàng tìm vài người thiếp cho ta sao?”
“Thiếp… thiếp là vì muốn tốt cho chàng.”
“Tốt? Tốt lắm! Thập Lục, nàng giỏi thật đấy, dám rộng rãi đến mức này cơ mà.”
Nguỵ Chiêu không thèm để ý đến ta nữa, mấy ngày liền đều ngủ ở thư phòng. Nhưng chàng ấy ấm ức, chẳng lẽ ta thì không? Nếu không phải vì thế đạo này khiến nữ nhân khó sống, ta sao lại phải ép mình đi chọn thiếp cho chàng?
Cuối cùng, chàng ấy bị bệnh.
Kiếm Như đến bảo ta đi thăm, vẻ mặt cổ quái, nói: “Đại thiếu gia ngủ ở thư phòng mấy hôm, bị cảm lạnh rồi.”
Ta vội nấu một bát canh gừng mang tới cho chàng.
Trong thư phòng, tất cả cửa sổ đều đóng chặt, không một tia sáng lọt vào.
Nguỵ Chiêu im lặng nhìn ta mở cửa sổ, gió thổi vào, lật tung những quyển sách trên bàn.
“Phu nhân của ta chẳng phải bận rộn chọn thiếp cho ta sao, sao lại có thời gian tới thăm ta?”
Chàng bệnh, ta không tới thăm, thì thăm ai?
Đại thiếu gia thấy ta im lặng hồi lâu không đáp, ánh mắt phượng khẽ khép, giọng đột nhiên trầm xuống: “Thập Lục, trong lòng nàng có người khác, nàng thích… Nhị đệ, đúng không? Nếu không, sao nàng có thể rộng rãi đến thế?”
Ta sửng sốt, chàng ấy sao lại nghĩ vậy?
“Ta tự biết mình là kẻ trầm lặng ít nói, còn nhị đệ thì phóng khoáng, từ nhỏ đã vậy. Người bên cạnh ta, lúc nào cũng thích đệ ấy hơn. Nếu như nàng…”
Lông mi dài của chàng ấy khẽ rủ xuống, vẻ mặt buồn bã, trông như mệt mỏi rã rời. Nhưng đó dù sao cũng chỉ là chuyện của ngày xưa.
“Ta nghĩ lại… đúng là phu nhân nhiều lần vào bếp, làm bánh ngọt, đều là để dành cho nhị thiếu gia. Còn ta, chẳng có lần nào.”
Quản gia Ngô mỗi khi thấy nhị thiếu gia về phủ cũng vui mừng ra mặt. Ta chợt thấy thương chàng ấy vô cùng, vội vàng nói: “Người thiếp thích là chàng, phu quân, từ trước đến nay thiếp chỉ thích mình chàng thôi.”
“Thế nàng còn định tìm thiếp cho ta không?”
“Không, chàng không thích, vậy chúng ta không nạp nữa.”
Nói xong, ta mới thấy có gì đó sai sai. Đại thiếu gia của ta – người luôn ra vẻ nho nhã, trắng trẻo, hóa ra bên trong lại gian xảo như vậy.
Ta vừa thẹn vừa giận, giậm chân nói: “Ai dà! Đại thiếu gia – phu quân! Chàng đúng là người…!”
Một vòng tay ấm áp ôm lấy ta từ phía sau, Nguỵ Chiêu bật cười, giọng nói dịu dàng đến không ngờ: “Đều là lỗi của ta, xin lỗi nàng.”
“Thiếp không tha thứ.”
“Thế thế này thì sao?”
“Ưm… Phu quân, chàng vẫn đang sốt mà…”
“Nàng thử sờ xem?”
Ta đưa tay chạm vào trán chàng ấy, thấy chỉ còn hơi âm ấm, đâu có sốt gì? Kiếm Như lừa ta!
“Đây là ban ngày, cửa sổ mở thế này… đừng làm loạn nữa…”
Nguỵ Chiêu thì thầm bên tai ta: “Thập Lục, bây giờ nàng đã mười sáu rồi…”
Ngoài cửa sổ, cành lựu vươn ra, từng chùm hoa đỏ rực nở rộ.
Đúng là một căn phòng ngập tràn sắc xuân, năm tháng yên bình, làn gió nhẹ thổi qua, làm rơi những trang sách xuống đất. Trên đó có một câu thơ, nhìn kỹ, viết rằng:
[Hoè xanh làm tối cửa sổ, lựu đỏ sáng cả mắt người.]
Từ nay về sau, năm năm tháng tháng, mãi mãi lâu dài.
[HẾT]