Quan Tài Treo - Chương 2
5.
Ông nội nói: “Tờ giấy này ở trong quan tài, người đàn ông chủ nhà vẫn nằm trên giường linh, nhưng tờ giấy trên mặt ông ta đã biến mất…”
“Nói vậy, ông ta thực sự đã vào quan tài rồi?” Tôi run lên bần bật.
“Đúng vậy, tờ giấy đắp mặt mang theo âm khí, người chết sẽ nhận ra đó là đồng loại. Con giữ lấy nó, sau này có thể sẽ cần đến. Giờ con mau rời khỏi đây ngay!”
“Thế còn ông nội thì sao?”
“Vẫn còn việc chưa làm xong, ông phải ở lại đây lo liệu. Con đừng lo cho ông, nhanh rời đi! Về nhà đưa vợ con chạy về hướng Nam! Càng xa càng tốt! Không bao giờ quay lại nữa!”
“Hả?”
Tôi tưởng chỉ cần rời khỏi đây về nhà là đủ, sao lại còn phải chạy trốn?
“Con còn có vợ con, con biết chạy đi đâu bây giờ, ông ơi?” Tôi khóc trong lo lắng.
“Ông không quan tâm con đi đâu, con phải rời đi ngay, đưa vợ con chạy càng nhanh càng tốt!”
“Thật sự phải đi sao, ông ơi?”
“Con muốn chết à?”
“Con…”
“Nếu không muốn chết, thì chạy ngay! Chậm thêm chút nữa sẽ không kịp đâu! Đây đều là nghiệp con tự tạo ra, tự con phải chịu lấy, không thể trách ai khác!”
“Vậy sau này con có thể quay lại tìm ông không?”
“Sau này tính sau, giờ con cứ qua được kiếp nạn trước mắt đã.”
Ông nội rơi nước mắt, thở dài một hơi.
Nhiều năm sau, tôi mới hiểu được ý nghĩa của tiếng thở dài đó. Đó là lần cuối cùng trong đời tôi còn thấy được ông. Sau lần chia ly này, ông nội và tôi đã cách biệt âm dương.
Khi bình minh vừa hé lên, tôi đã chuẩn bị mọi thứ xong xuôi, nhìn ông nội lần cuối: “Ông ơi, con đi đây…”
“Đi mau! Đi về hướng Nam! Dù có chuyện gì xảy ra cũng không được ngoảnh lại!”
Nhưng vừa khi tôi bước ra khỏi cửa, ông nội bỗng hét lớn: “Cúi xuống mau!”
Tôi lập tức cảm thấy một cơn gió mạnh lao tới từ phía sau, theo phản xạ tôi ôm đầu ngồi xuống, có thứ gì đó lướt qua đầu tôi và rơi xuống trước mặt vỡ tan tành.
Tôi định thần lại nhìn, chính là bức tượng nhỏ kéo xe.
Cùng lúc đó, một tiếng gầm đau đớn vang lên từ phía sau. Tôi quay phắt lại, chỉ thấy ông nội quỳ trên đất, tay ôm ngực, máu tươi tuôn ra không ngớt.
Tôi hoảng hốt, hét lên: “Ông ơi!”
Muốn lao đến chỗ ông.
Ánh mắt ông nội sắc như gươm, ông quát lên dữ dội: “Đừng ngoảnh lại! Đi thẳng về phía trước! Đi mau! Đừng lo cho ông! Đừng quay lại!”
Tôi nghiến răng, cắn môi, quay đầu bỏ chạy!
Về đến nhà, tôi vội vàng thu dọn qua loa, bế vợ con đang ngủ trên giường, rồi theo lời dặn của ông nội, một mạch chạy về hướng Nam.
Tôi vừa chạy vừa khóc. Tôi biết ông nội giờ có lẽ đã không còn nữa. Tôi biết ông đã chết thay tôi.
Ông nội từng mắng tôi rằng làm việc gì cũng chỉ hời hợt, đọc sách cũng qua loa, còn chuyện mất tiền thì liên quan đến việc tôi tạc bức tượng người kéo xe quá ẩu. Chiếc xe tôi tạc không chỉ lớn mà còn một đầu to, một đầu nhỏ!
Tôi thề rằng mình không cố ý. Lúc đó, tôi tiện tay nhặt một mảnh gỗ vụn, mà mảnh gỗ đó vốn đã có hình dạng một đầu to một đầu nhỏ. Do thời gian gấp rút, lại làm việc lén lút, tôi qua loa khắc ra chiếc xe theo hình dáng của mảnh gỗ, không chú ý đến sự không cân đối của nó. Ai ngờ chiếc xe một đầu to, một đầu nhỏ lại trùng hợp với hình dạng của quan tài.
Việc kéo quan tài ra ngoài sao có thể là điềm lành được? Chẳng những mất của mà còn mất người!
Sau đó, ông nội tôi đã sửa lại chiếc xe, khắc thêm vài đường, biến nó thành hình tròn, và thay đổi hướng của bức tượng nhỏ, hy vọng có thể dùng thế “chiêu tài tiến bảo” để hóa giải sai lầm của tôi. Nhưng người đàn ông chủ nhà không chấp nhận tấm lòng của ông, thà phá bỏ thế chiêu tài còn hơn là tha mạng cho tôi.
Ông nội bảo tôi kẹp tờ giấy đắp mặt người chết vào quyển sách, ôm trong lòng, rồi chạy về hướng Nam. Đi mãi đến khi trời tối thì mới dừng lại nghỉ, hôm sau tiếp tục đi, và cứ đi như vậy suốt 49 ngày thì mới có thể nghĩ đến chuyện dừng chân lập nghiệp. Nhưng tuyệt đối không được làm nghề thợ mộc nữa, và cũng không được nói mình là thợ mộc.
Thật ra, dù ông nội không nói, tôi cũng không thể làm nghề thợ mộc được nữa. Cổ tay tôi, bị người đàn ông đó bóp gần như vỡ, đã không còn đủ sức cầm rìu.
Tôi và ông nội ăn cơm cầm đũa, làm việc cầm rìu đều là tay trái, rìu của chúng tôi đều là đặc chế. Nhưng giờ tay trái của tôi không thể cầm nổi rìu nữa.
Tuy tôi không thể dùng rìu, cưa, đục hay các dụng cụ làm mộc khác, nhưng cầm cuốc hay liềm thì lại không hề có vấn đề gì, điều này khiến tôi không khỏi rùng mình.
Ông nội còn dặn tôi rằng, trong chuyến đi này, dù gặp người hay chuyện gì, cũng không được hành động bốc đồng, phải học cách sống cúi đầu làm người. Chỉ cần có được bữa cơm ăn, có chỗ để đứng thì đó đã là ân huệ trời ban.
Nhưng dù tôi có cúi đầu đến đâu, tôi cũng không tìm được nơi nào để gia đình bốn người chúng tôi có thể an cư lạc nghiệp.
Tay nghề kiếm sống đã phế, mà thời đó mọi người đều nghèo, ăn uống cũng phải dựa vào phân phối, không nơi nào dễ dàng tiếp nhận thêm miệng ăn, mà gia đình tôi lại thêm tận bốn miệng.
Tôi chỉ còn cách vừa ăn xin vừa tiếp tục chạy trốn về phía Nam, cho đến khi đến được một ngôi làng nhỏ.
6.
Ngôi làng này nhỏ xinh, vuông vắn, chỉ có bốn dãy nhà, mỗi dãy mười mấy hộ gia đình, rất gọn gàng.
Nhưng không hiểu sao, ở dãy cuối cùng, ở góc Đông Bắc lại thiếu một ngôi nhà, để lại một khoảng trống.
Tôi tự nhiên đặt gánh đồ xuống khoảng trống đó, quyết định dừng lại tại đây dựng trại.
Giống như hàng ngàn năm qua, nơi này đã đợi sẵn gia đình chúng tôi.
Nhưng đó chỉ là tôi tự an ủi mình. Tôi biết không quá hai ngày nữa sẽ có người đến đuổi gia đình tôi đi.
Có lẽ đây là đất nền của ai đó, chưa kịp xây nhà.
Nhưng tôi thực sự không thể chạy thêm nữa, nghỉ ngơi đã rồi tính, bám trụ được ngày nào hay ngày đó.
Không ngờ rằng ngôi làng nhỏ bé, không mấy nổi bật này lại có người dân vô cùng chất phác. Khi biết chúng tôi là người từ nơi khác đến lánh nạn. Tôi bảo với họ rằng vùng chúng tôi liên tục bị thiên tai, mùa màng không thu hoạch được gì, không còn cách nào khác nên phải ra ngoài kiếm sống, họ đều thể hiện lòng tốt vô cùng lớn.
Nhà này mang đến một bát canh, nhà kia cho một cái bánh, tuy là đồ ăn giản dị nhưng trong thời kỳ khốn khó như vậy, đó là điều hiếm có. Đây cũng là lần đầu tiên trong ba năm trốn chạy, tôi gặp được một ngôi làng và những người dân tốt bụng như thế, lòng tôi cảm thấy ấm áp vô cùng.
Gia đình bốn người chúng tôi ở lại đây thêm vài ngày, rồi quyết định ở lại không đi nữa. Tôi cứ nghĩ mình đã tìm được một nơi an cư lạc nghiệp, nhưng không ngờ, đây lại là kiếp nạn lớn nhất trong đời tôi.
Một ngày nọ, có một cán bộ thôn tìm đến, hỏi chúng tôi có định ở lại đây lâu dài không. Nếu chúng tôi có ý định đó, họ sẽ phân cho chúng tôi một mảnh đất làm nhà, có chỗ ở ổn định, và từ đó chúng tôi cũng trở thành người trong thôn, sau này sẽ được hưởng các phúc lợi như mọi người trong thôn.
Tôi mừng rỡ khôn xiết, quỳ xuống đất dập đầu ba cái trước vị cán bộ thôn hiền lành: “Chú Khương! Ân nghĩa này con không thể nói hết thành lời! Tôi trôi dạt đến đây, gặp được ân nhân ban cho gia đình một chỗ dung thân, dù làm trâu làm ngựa cũng không trả hết ơn này!”
Chú Khương vội vàng đỡ tôi dậy: “Không cần khách sáo, bốn bể là anh em mà, cậu vượt cả ngàn dặm đến đây cũng là duyên phận. Vừa hay, chỗ cậu đang đứng là đất bỏ không, để tôi chia cho cậu làm đất xây nhà. Các cậu sửa soạn đi, tôi sẽ gọi vài người trong thôn đến giúp, chí ít cũng dựng được hai căn phòng nhỏ để che mưa che nắng. Thời tiết sắp lạnh rồi, người lớn thế nào cũng được, nhưng trẻ con không thể chịu khổ được!”
Ngôi làng này tên là Tiểu Khương, hầu hết người dân trong thôn đều mang họ Khương, rất ít người mang họ khác. Chú Khương vừa nói một tiếng, dân làng lập tức tập hợp lại giúp đỡ, đắp đất xây tường, dựng mái nhà bằng rơm.
Lúc đó, việc xây nhà đều dựa vào vật liệu có sẵn: tường đắp bằng đất vàng, mái lợp bằng rơm. Điều duy nhất cần tiền mua là đá để làm nền móng và đòn tay. Tôi đang lo không biết phải làm sao thì chú Khương vung tay viết một cái, số tiền đó sẽ do thôn chi trả!
Tôi cảm động đến nỗi lại quỳ xuống dập đầu ba cái trước chú Khương.
Thế là, dưới sự giúp đỡ tận tình của vị cán bộ thôn và những người dân như những vị Bồ Tát, cuối cùng tôi cũng có một nơi để duỗi thẳng chân ngủ qua đêm ở nơi đất khách quê người.
Tôi cũng trở thành một thành viên của ngôi làng này, bắt đầu cuộc sống mới của mình.
Tôi ghi nhớ lời ông nội dặn, sống cúi đầu làm người. Cũng ghi nhớ ân tình của chú Khương và dân làng, tôi tích cực tham gia vào mọi hoạt động sản xuất nông nghiệp, từ cày cấy mùa xuân, trồng trọt mùa hè, thu hoạch mùa thu đến dự trữ mùa đông. Mỗi việc tôi đều xung phong làm trước, đặc biệt là khi mùa đông đến, tham gia công việc nạo vét sông, tôi luôn đứng ở tuyến đầu.
Hồi đó, việc nạo vét sông khổ lắm!
Trong cái rét cắt da cắt thịt, chúng tôi phải xuống sông nạo vét, mở rộng lòng sông. Tất cả đều dựa vào sức người, không có máy móc, duy nhất chỉ có một chiếc máy kéo của đội sản xuất.
Mọi người đều không muốn làm công việc nạo vét sông, nên để công bằng, mỗi nhà đều phải cử một người đi làm. Ai không có lao động phù hợp thì phải bỏ tiền ra thay.
Khi đến công trường, công việc cũng được phân chia thành ba bậc khác nhau. Người yếu thì làm việc nhẹ nhàng ở trên bờ, còn người khỏe mạnh thì xắn quần lội xuống dòng sông lạnh buốt để gánh bùn lên.
Tôi dĩ nhiên là người xuống sông gánh bùn.
Nhưng ngay năm đầu tiên tham gia nạo vét sông, trong nhà tôi đã xảy ra chuyện kỳ lạ.