Dương Hoa Lạc Tần Tử Quy Đề - Chương 3
2.
Sau khi được nâng lên thành nha hoàn nhị đẳng, ta không còn ở cùng với Lý ma ma nữa.
Ta dọn đến căn phòng trước đây của Bích Đào, sống chung với Hồng Hạnh. Căn phòng tuy nhỏ nhưng đầy đủ mọi thứ, từ giường, bàn trang điểm đến bàn ghế đều được sắp xếp gọn gàng.
Hồng Hạnh là một cô nương có tính tình ôn hòa, sau Tết vừa rồi nàng tròn 16 tuổi, lớn hơn ta hai tuổi, làm việc luôn chu đáo và rất quan tâm đến người khác.
Trước đây nàng thường cùng Trương ma ma mang điểm tâm cho chúng ta, nên chúng ta cũng khá thân quen.
Hồng Hạnh vốn do gia đình gặp nạn nên bị bán vào nhà họ Lục. Những năm qua, nhờ vào tiền lương của nàng, gia đình đã dần khấm khá hơn, buôn bán nhỏ kiếm sống.
Họ đang có ý định chuộc nàng về, nhưng Hồng Hạnh lại nói muốn ở lại Lục phủ thêm hai năm nữa vì lương bổng ở đây khá cao, chờ đến khi nàng chuẩn bị gả chồng rồi mới tính chuyện rời đi cũng không muộn.
Lúc đầu, ta chẳng hiểu gì cả, Hồng Hạnh liền kiên nhẫn dạy ta từng chút một, ví dụ như thiếu gia thích uống trà ấm ở mức nào, điểm tâm trong phòng không được để qua đêm, cắm hoa trong phòng không nhất thiết phải là loài hoa nào, nhưng nhất định phải có hoa tươi.
Bàn ghế trong phòng cũng phải lau chùi mỗi ngày, nhưng công việc này chỉ làm khi thiếu gia đến học đường, lúc thiếu gia có mặt thì chúng ta nên hạn chế vào phòng quấy rầy.
Những việc như thay y phục, mài mực, trải giường thì đã có Trương ma ma và tiểu đồng bên cạnh thiếu gia là Trương Sinh lo liệu.
Những việc này, trừ khi Trương ma ma hoặc thiếu gia lên tiếng, chúng ta tuyệt đối không được tự ý xen vào. Còn về những việc khác của thiếu gia…
Ta lấy giấy bút, lập tức ghi chép lại từng điều mà Hồng Hạnh nói, ghi đầy năm trang giấy những điều cần lưu ý, ta chỉ muốn bỏ việc cho xong!
Hồng Hạnh nhìn đống ghi chép của ta, bật cười trêu chọc:
“Trương ma ma bảo muội ngốc nghếch, nhưng ta thấy cũng đâu đến nỗi nào, thông minh lắm đấy chứ!”
“Trương ma ma nói không sai, ta nhớ kém, lại thêm vụng về, muốn làm việc tốt chẳng phải cần chút mưu mẹo sao!”
Hồng Hạnh cẩn thận xem chữ viết của ta rồi hỏi:
“Đây là bút pháp tiểu khải chăng?”
Trong lòng ta giật mình, quên tiết chế lại rồi. Nhưng ngoài mặt vẫn giữ bình tĩnh, đáp:
“Đâu phải bút pháp tiểu khải gì đâu, chỉ là trông giống vậy thôi!”
Hồng Hạnh lắc đầu: “Tuy rằng loại chữ này ta chỉ từng thấy qua một lần khi dâng trà cho thiếu gia, trong một quyển sách trên bàn của thiếu gia, nhưng ta tuyệt đối không nhận nhầm. Không ngờ muội lại viết được, mà còn viết rất đẹp!”
Ta thầm nghĩ có lẽ không thể nói rằng từ hồi tiểu học ta đã luyện thư pháp đến khi học cấp ba đâu nhỉ? Nếu không vì kỳ thi đại học, có lẽ ta đã viết đẹp hơn nữa.
Ta cười khì, giật lấy tờ giấy từ tay Hồng Hạnh, nói:
“Đâu có đẹp như tỷ nói, ta chỉ sợ chữ ta viết xấu, nên mới cẩn thận chăm chút chút thôi. Hồng Hạnh tỷ tỷ chớ đùa ta nữa. Nghe nói thêu thùa của tỷ mới là tuyệt kỹ, thêu cánh hồng nhạn chi tiết đến từng chiếc lông vũ, ta còn chưa kịp học hỏi đây này. Tỷ chớ giấu nghề, dạy ta nhiều vào nhé!”
Hồng Hạnh vốn là người chân thành, nàng thật lòng chỉ bảo ta từng đường kim mũi chỉ.
Ta cẩn trọng làm việc, theo đúng những gì Hồng Hạnh chỉ dạy, không dám lơ là.
Khi dâng trà, ta nhờ Trương Sinh mang đến cho thiếu gia, còn khi thiếu gia ở trong phòng, nếu không cần thiết, ta tuyệt đối không vào.
Vì vậy, mặc dù đã làm nha hoàn nhị đẳng một năm, ta vẫn chưa để lại ấn tượng gì với thiếu gia.
Khi rảnh rỗi, ta thường chạy ra sau viện, nép mình bên cạnh Lý ma ma.
Trước đây, Lý ma ma thường để dành bánh trái ngon cho ta, mỗi khi ra ngoài không quên mang về cho ta chút đồ. Nay thì ngược lại, ta đem bánh trái đến cho người.
Tiền lương của ta đã tăng khá nhiều, ta thường nhờ người mua những thứ mới lạ ở chợ mang về cho Lý ma ma. Bà luôn ôm ta vào lòng nghe ta nói chuyện, rồi lại nhét đầy bánh trái vào miệng ta. Mỗi lần sắp rời đi, bà lại dặn dò ta giữ vững bổn phận, làm việc cẩn thận, không được đi vào vết xe đổ của Bích Đào.
Hồng Hạnh biết ta thân thiết với Lý ma ma, nên mỗi lần ta lén ra ngoài thăm bà, nàng đều để ta “trốn việc”, thậm chí còn để dành cho ta mấy món bánh trái mà thiếu gia không dùng tới.
Thời gian cứ thế trôi qua, chẳng mấy chốc ta đã tròn 16 tuổi. Hồng Hạnh cũng đến tuổi xuất giá, cha mẹ nàng đã tìm cho nàng một mối hôn sự, đến chuộc nàng về. Phu nhân cảm niệm những năm tháng vất vả của Hồng Hạnh, ban cho nàng một khoản hồi môn hậu hĩnh.
Ta biết sớm muộn gì cũng đến ngày này, nhưng khi ngày ấy thật sự đến, lòng ta vừa vui mừng vừa buồn bã.
Bao năm qua, Hồng Hạnh luôn chăm sóc ta như tỷ tỷ ruột thịt, từ việc may áo mùa đông đến việc để dành trà lạnh mùa hè. Biết ta thích điểm tâm trong phòng thiếu gia, nàng chẳng bao giờ nỡ ăn mà để dành hết cho ta. Biết ta lo lắng cho Lý ma ma, mỗi lần ta trốn đi thăm bà, nàng đều “làm thay” cho ta mà chẳng một lời than phiền.
Ta dành nửa năm tiền lương mua cho nàng một chiếc trâm bích ngọc thượng hạng, rồi dùng vải lụa mà chủ nhân ban cho để tự tay may cho nàng một bộ áo mới.
Hồng Hạnh vuốt ve món quà ta tặng, ôm ta một cái rồi kéo tay ta, nói:
“Tử Quy, ta biết tâm tư của muội. Nhưng trong thế gian này, nữ nhân vốn chịu nhiều ràng buộc, điều muội mong muốn chỉ e rằng vô cùng khó khăn. Làm tỷ tỷ, ta xót cho muội, nhưng là nữ nhân, ta thật lòng khâm phục muội.”
Ta đưa mắt nhìn tiễn Hồng Hạnh rời khỏi cổng Lục phủ, trở về phòng mà cảm thấy nơi nào cũng trống trải vô cùng.
Ta chạy đến bên Lý ma ma khóc một trận. Bà an ủi ta vài câu, nhưng cũng không quên nhắc ta rằng, Hồng Hạnh đã đi, không còn ai thay ta làm việc nữa.
Hồng Hạnh đi rồi, phu nhân gọi ta đến, đại ý rằng Hồng Hạnh đã rời phủ, vốn dĩ nên tìm thêm một nha hoàn nhị đẳng khác, nhưng vì thiếu gia sắp dự khoa cử, sợ người mới không hiểu chuyện sẽ quấy rầy sự thanh tịnh của thiếu gia, nên bảo ta chịu khó một thời gian, chờ khi thiếu gia thi xong mới thêm người.
Còn nữa, lúc này khoa cử đã cận kề, phu nhân dặn dò ta phải chú ý nhiều hơn, hầu hạ thiếu gia cho tốt! Đương nhiên, tháng lương sẽ được gấp ba! Nếu thiếu gia đỗ cao, còn có thêm thưởng!
Thực ra công việc cũng không nhiều, đây cũng là lý do trước đây ta thường “trốn việc”. Giờ lại được tăng gấp đôi tiền lương, ta tất nhiên là vui vẻ nhận lời ngay.
Đúng là thiếu niên thời cổ đại cũng chịu không ít áp lực học hành! Nhìn thiếu gia ngày ngày vùi đầu vào sách vở, ta không khỏi mềm lòng. Nhưng thế gian vốn dĩ là vậy, chẳng thể làm gì khác.
Cũng như hồi thi đại học của ta, ai cũng biết đó là nền giáo dục thi cử, ai cũng biết học trò vất vả, nhưng chẳng có bậc cha mẹ nào bảo con cái đừng học, đừng thi cả!
Ta chỉ có thể mỗi ngày trước khi thiếu gia từ học đường trở về, đem nước đậu xanh nấu sẵn đặt vào giếng cho mát, đợi đến khi người về thì để Trương Sinh mang vào. Ta chỉ có thể thay hoa cỏ trong phòng bằng lan hương thanh nhã, giúp người tĩnh tâm. Ta chỉ có thể thay đổi đủ loại điểm tâm trên bàn để người đỡ ngán. Ta chỉ có thể, khi nửa đêm thiếu gia đọc sách mệt mỏi, lén nhờ Trương Sinh đốt hương thơm giúp tinh thần tỉnh táo…
Những điều ta làm thật sự rất nhỏ, rốt cuộc khoa cử cũng không phải do ta thi, con đường ấy thiếu gia phải tự mình bước qua.
Chỉ là, mỗi khi nhìn thấy người cố gắng học tập, ta lại không khỏi nhớ đến bạn trai mình khi còn ở hiện đại.
Hắn cũng vậy, luôn nghiêm túc đến mức ít nói ít cười, cứ như một học giả già dặn, mọi việc làm đều cẩn thận tỉ mỉ. Hồi ấy, ta thường hay trêu chọc hắn, hoặc là bất ngờ xuất hiện sau lưng che mắt hắn lại, hoặc là chui vào lòng hắn mà làm nũng. Nghĩ đến đây, ta khẽ mỉm cười.
Ngẩng đầu nhìn bầu trời, trăng sao lấp lánh, ta chợt nhớ đến những ngày bên nhau ở bờ hồ, chúng ta thường ngắm trăng. Đôi lúc ta nổi hứng, bắt hắn chơi trò Phi Hoa Lệnh với ta, vì khi ấy ta thường xem “Đại hội thơ từ Trung Hoa”.
Hắn là dân khoa học tự nhiên, tất nhiên làm sao thắng nổi ta, nói chưa được vài câu đã giơ tay nhận thua, rồi cam chịu chạy đi mua kem cho ta.
Thực ra ta biết rõ, hắn cố tình nhường ta. Một người thuộc lòng thơ Đường, thơ Tống, lại đọc kỹ Thi Kinh và Hán Lạc Phủ, làm sao có thể thua trước ta – kẻ học chưa đến nơi đến chốn.
Lần cuối cùng chúng ta chơi Phi Hoa Lệnh, đề tài là thơ có chữ “trăng”. Câu cuối cùng hắn đọc là một câu thơ nổi tiếng của Tô Thức:
“Nhân hữu bi hoan ly hợp, nguyệt hữu âm tình viên khuyết, thử sự cổ nan toàn.”
“Đãn nguyện nhân trường cửu, thiên lý cộng thiền quyên.”
Ta không kiềm được, khẽ đọc tiếp hai câu sau.
Giờ đây, có lẽ mọi người đều nghĩ rằng ta đã chết trong vụ hỏa hoạn đó, bao gồm cả hắn. Ai ngờ ta lại tái sinh ở một thế giới khác, sống lặng lẽ thận trọng, đến nay đã tám năm tròn.
Ta không biết nơi ấy thời gian đã trôi qua bao lâu, không biết hắn đã bước ra khỏi bóng tối để bắt đầu cuộc sống mới chưa. Liệu hắn có chìm đắm trong nghiên cứu, không còn để tâm đến chuyện trần thế hay không? Liệu hắn có bị cha mẹ thúc ép mà cưới người khác, liệu bây giờ hắn đã có gia đình ấm êm hạnh phúc, hay liệu hắn đã quên ta rồi!