Đông Vũ Hóa Xuân Hàn - Chương 14
29.
Sự hỗn loạn trong vụ nổ vào ngày Đoan Ngọ nhanh chóng bị cuộc sống bận rộn cuốn trôi.
Chỉ là thiếu gia cũng đi lại ở phủ tướng quân nhiều hơn, khi ta về làng, chàng ấy cũng không còn theo sát như trước. Ngày tháng trôi qua thật nhanh trong những chuyến thu mua rau củ, mang về những món đồ mà người dân trong làng nhờ ta đưa đến, trồng trọt, tưới nước, nhổ cỏ và bón phân. Bắp ngô đã mọc râu, nhưng người đồng hành bên cạnh ta giờ đổi thành chú chó nhỏ tiểu Hoàng
Ta dắt con lừa mới về làng, đầu tiên ghé qua nhà Nhan thúc đưa thuốc cho thím ấy. Thím Nhan đã bớt ho và có thể làm vài việc nhẹ nhàng trong nhà. Phu nhân bảo ta rằng cô con gái của Nhan thúc, Thanh Thanh, cũng tầm tuổi tiểu thư, ngoan ngoãn và điềm đạm. Phu nhân muốn xem liệu Thanh Thanh có muốn đến tiệm để làm bạn đồng hành với tiểu thư, mỗi tháng sẽ trả cho nhà cô bé ba trăm văn.
Phu nhân còn tinh nghịch nói: “Tất nhiên là con phải chi tiền, ta nghe Vương thúc kể lại rằng, khi mua con trai nhà ta, con còn thề thốt sẽ chăm sóc cho em chồng mà.”
Thật là cao thủ trong nhà quyền quý, quả nhiên là nhiều toan tính!
Về đến làng, ta ghé qua Nhan thúc. Từ xa đã thấy Hải Hải đang giặt quần áo, còn Nhan thúc cũng có nhà. Vừa thấy ta, thúc đã vội mời vào và bảo thím Nhan mang cho ta mấy quả dâu rừng mà thúc vừa hái. Ta vừa ăn dâu, vừa nói rõ ý định của mình. Vợ chồng Nhan thúc nhìn nhau có vẻ khó xử, dường như không muốn nhưng cũng không thể từ chối.
Ta chợt nhận ra, lúc này trông mình không khác nào một địa chủ gian ác. Ta liền đặt quả dâu xuống và nói rõ hơn với họ:
“Không phải bán thân đâu. Ngô gia đang là tội nhân, họ không thể buôn bán người công khai được. Cửa tiệm đó là của ta, bọn họ chỉ là người làm mà thôi. Phu nhân nói rằng Thanh Thanh không phải làm những việc của nha hoàn. Tiểu thư nghịch ngợm quá nên phu nhân cần tìm người điềm tĩnh để làm bạn. Thanh Thanh có thể cùng tiểu thư học đọc, học viết và nếu muốn, có thể giống như ta, học cách quản lý tài chính và công việc từ phu nhân. Công việc này cũng có lương, như A Bố nhà họ Lưu vậy, lương của A Bố là một trăm văn, còn lương của Thanh Thanh là ba trăm văn mỗi tháng.”
Vợ chồng Nhan thúc nhìn nhau rồi xúc động hỏi lại: “Thật sự có thể học chữ sao?”
“Tất nhiên rồi!” – Ta đáp chắc chắn, vừa nói vừa nhìn xung quanh tìm kiếm Thanh Thanh, nhưng dường như từ lúc ta vào đến giờ vẫn chưa thấy bóng dáng cô bé đâu.
Chưa kịp hỏi thì bên cạnh, Hải Hải đột nhiên bật khóc, ngồi bệt xuống đất vừa khóc vừa đập tay chân: “Tại sao lại là Thanh Thanh? Sao cái gì tốt cũng là Thanh Thanh hết? Con cũng muốn học chữ, con cũng muốn vào thành!”
Tình huống bất ngờ khiến ta giật mình, không hiểu sao một cậu bé ngoan ngoãn như Hải Hải lại cư xử như vậy. Ta vội vàng bước tới và đỡ cậu bé dậy: “Sao ngươi lại khóc?”
Nhan thúc lập tức túm lấy Hải Hải, kéo cậu bé đứng lên rồi đạp cho một cái: “Con học cái gì mà học!“
Hóa ra, Thanh Thanh đã đến học việc làm túi từ vỏ cây bạch dương ở nhà thím Thu, còn Hải Hải vì tính cẩu thả và hậu đậu nên bị Thu thúc cho nghỉ. Thanh Thanh thì học rất nhanh và giỏi, đã được nhận làm học việc. Công việc giặt giũ, nấu ăn và chẻ củi trong nhà đổ hết lên đầu Hải Hải, khiến cậu cảm thấy vừa ấm ức vừa chán nản.
Các gia đình trong làng có con nhỏ đều gửi chúng đến nhà thím Thu để học làm đồ từ vỏ cây bạch dương. Chuyện này bắt đầu khi thiếu gia còn nhàn rỗi, thường hay đi lang thang trong làng và được mọi người quý mến. Thím Thu đã mời thiếu gia vào nhà ăn bánh nướng, và khi thấy những vật dụng như ấm, bát, ghế nhỏ và giỏ đựng đồ đều được làm từ vỏ cây bạch dương, thiếu gia rất thích thú. Thím Thu kể rằng gia đình thím thuộc tộc Ngạc Luân Xuân, đã di cư đến đây từ rất lâu. Nghề làm đồ từ vỏ cây bạch dương là truyền thống gia đình của họ.
Thu thúc thường vào rừng bạch dương để bóc vỏ cây vào mùa hè. Sau khi cắt vỏ thành hình cần thiết, ông sẽ dùng dao làm sạch và cắt bỏ phần thừa. Sau đó ghép các tấm vỏ lại với nhau và khâu bằng dây thừng làm từ sợi cây gai. Công việc này đòi hỏi sự khéo léo, và khác với việc may vá quần áo, các mũi khâu phải thưa nhưng vẫn đều và đẹp. Thím Thu nói trước đây họ còn trang trí hoa văn và hình chạm lên sản phẩm, nhưng những năm gần đây, khó khăn chồng chất khiến gia đình không còn thời gian và sức lực để làm những việc đó nữa.
Thiếu gia mang về một cái túi làm từ vỏ cây mà Thu thúc tặng, có thể đeo chéo, đựng được một con dao nhỏ và vài miếng thịt khô. Cái túi cứng hơn túi vải mà lại nhẹ hơn túi da, còn có hình một con nai nhỏ được làm từ vỏ cây dán ở mặt trước. Ta nói với cậu rằng đó không phải là nai mà là con hoẵng ngốc, nhưng cậu vẫn rất thích.
Thiếu gia liền nảy ra một ý tưởng kinh doanh mới, thuyết phục Thu thúc dạy lũ trẻ trong làng làm đồ từ vỏ cây để giúp các gia đình kiếm thêm thu nhập. Chàng thậm chí còn vay tiền từ phu nhân và viết giấy nợ đàng hoàng.
Giờ đây, thiếu gia Ngô gia đã có chút tiếng tăm ở Ninh An thành. Không rõ là nhờ chàng viết chữ đẹp được tướng quân và các văn nhân yêu thích, hay nhờ việc buôn bán đặc sản từ làng ra phía Nam rồi mua hàng hóa từ phía Nam mang về mà kiếm được nhiều tiền. Nhiều người gọi chàng là đệ tử cuối cùng của Vương thúc.
Nhờ thiếu gia buôn bán mà mỗi nhà trong làng đều có tiền. Chuyện này nhanh chóng lan sang hai làng bên, khiến họ cũng cử người đến tìm gặp trưởng làng nhiều lần.
Thiếu gia bán hàng khô của làng ra phía Nam, giá cả tăng gấp mấy lần. Đồ làm từ vỏ cây bạch dương như bình nước và túi nhỏ thậm chí được bán với giá cao ngất ngưởng, nhưng ta không rõ chàng đã bịa ra chiêu trò gì để bán được với giá đó.
Tuy nhiên, ta bảo thiếu gia chỉ thêm ba phần cho người dân làng, phần dư thì để mua thuốc cho người bệnh, mua hai con bò và một con lừa mới cho làng. Số còn lại dùng để may vài bộ quần áo vải gai cho bọn trẻ để mặc khi làm việc, vào thành hay lao động. Khi dân làng đã thực sự ổn định, chúng ta sẽ trả nốt phần tiền còn lại cho họ.
Chuyện này chỉ nói cho mỗi trưởng làng biết. Thiếu gia hỏi tại sao không nói thẳng với mọi người, ta đáp một cách sâu xa: “Nếu nói ra, liệu có chắc chắn tất cả mọi người sẽ đồng ý và hợp tác không? Nhà chúng ta đâu phải là từ thiện, không thu tiền cũng không thể giúp không được.”
Thiếu gia nhìn ta với ánh mắt ngạc nhiên, sau đó suy nghĩ một lúc rồi thở dài: “Không hổ danh là đệ tử của mẹ ta!”
30
Chớp mắt lại đến mùa thu. Thiếu gia cử người trở về báo rằng phải nhanh chóng vận chuyển một chuyến hàng khô và lâm sản nữa xuống phương Nam trước khi tuyết rơi. Nếu vận chuyển xong trước mùa xuân sang năm, sẽ có thể đi thêm một chuyến nữa. Thỉnh thoảng, ai đó may mắn bắt được một con hoẵng ngốc hoặc thỏ rừng, thiếu gia cũng sẽ giúp họ bán da lông cho tiệm da thuộc cho nhà họ Dao. Tuy nhiên, chàng ấy luôn nhắc nhở mọi người không được săn bắn trong núi vì đó là việc thuộc quyền của quan phủ, không thể xâm phạm.
Đúng vậy, thiếu gia đã cử người trở về. Người được cử chính là Triệu Nhị Thiết. Hiện giờ cậu ấy đã tiếp quản cửa hàng lâm sản của Vương thúc, đổi thành cửa hàng lâm sản, thuê cả Triệu Nhị Thiết và Hải Hải làm việc ở đó.
Triệu Nhị Thiết rất hài lòng vì bây giờ cậu ấy phụ trách con lừa của làng. Mỗi khi về thu mua rau củ, cậu ấy còn được bà con khen ngợi: “Thằng Nhị Thiết giờ đã ra dáng lắm rồi!”. Nhìn cái vẻ ngạo mạn của cậu ấy, ta chỉ muốn dùng bút ghi sổ mà chọc vào mũi cậu.
Còn Hải Hải thì không mấy vui vẻ. Cậu ấy đã được lên phố thật đấy, nhưng thỉnh thoảng về thăm cha mẹ, toàn bộ việc giặt giũ, nấu ăn, chẻ củi đều rơi vào tay cậu ấy. Bởi tay của em gái Thanh Thanh giờ là để viết chữ, thậm chí còn khắc được hình chim hạc và nai trên miếng vỏ bạch dương nhỏ xíu, nên quý giá vô cùng.
Trong làng thì bận rộn, náo nhiệt không kém gì những làng bên cạnh. Người dân vừa thu hoạch mùa màng, vừa lên núi hái hạt dẻ. Hơn nửa năm qua, bà con có tiền mua muối sạch, thỉnh thoảng còn được ăn thịt, ốm đau thì có thể mua thuốc. Mọi người trở nên khỏe mạnh và tràn đầy sức sống. Dù cảnh vật mùa thu đã heo hắt nhưng không khí trong làng vẫn đầy ắp sự sống.
Khi tuyết rơi lần đầu, sự náo nhiệt của mùa thu có vẻ lắng xuống, nhưng không hề giảm bớt niềm vui.
Hôm nay, ta và tổ phụ sẽ muối dưa cải. Nhan thúc và những thúc bá trong làng giúp ta chặt củi và mang bắp cải vào.
Ta dựng một cái nồi lớn trong sân, thím Nhan giúp ta đun nước, Phúc tỷ và thím Tam giúp ta rửa rau.
Họ tiện thể phàn nàn với ta: “Ngày nào con cũng vội vã làm việc mà không chịu muối dưa từ tháng Tư, giờ lại không muối dưa cải chua nữa. Đến lúc con và thiếu gia chuẩn bị làm lễ cưới thì chắc toàn phải lấy dưa từ nhà ta đem sang!”
Ta chỉ biết cười ngốc để thoát khỏi tình thế, nhưng không ngờ thím Tam lại chuyển sang chọc ghẹo tổ mẫu: “Tổ mẫu con đúng là tay cự phách trong làng, mấy tháng rồi không về thăm nhà, giờ còn bắt bọn ta làm giúp. Tổ phụ con cũng không sợ bà ấy chạy mất à?”
Thím vừa dứt lời, giọng nói rõ ràng của tổ mẫu từ ngoài cửa vang lên: “Mụ già lắm điều, bà đang nói gì thế? Giờ mọi người đã ăn được muối ngon, mụ lại rảnh rỗi nhiều chuyện rồi. Xem ra tấm vải hoa mà ta mang về hôm nay không hợp với mụ đâu.”
Vừa nói, bà vừa nhét tấm vải hoa vào tay thím Tam và chen vào rửa rau. Bà nói thêm: “Phúc tử, thím Nhan, các cô cũng có phần đấy.”
Thím Tam nhanh chóng vẫy nước khỏi tay, nhẹ nhàng sờ tấm vải đỏ chấm xanh mới tinh, mắt sáng lên, vừa hớn hở vừa hơi áy náy, thím ngồi xuống cạnh tổ mẫu: “Hehe, tỷ à, tỷ tỷ đừng giận, ta chỉ đùa thôi. Ta đâu có muốn tỷ chạy mất, chẳng phải ta cũng hưởng lây phước từ tỷ sao.”
Phu nhân và ma ma mang đồ vào sân, tiểu thư vừa nắm nắm tuyết làm cầu tuyết vừa trượt chân ngã vào lòng ta, cười khanh khách. Xem ra ảnh hưởng của Thanh Thanh không lớn lắm, nhưng khả năng dạy học của cô bé thật đáng nể.
Ta vẫn cứ nhìn quanh, không thấy ai cả. Phu nhân phá vỡ suy nghĩ của ta: “Đừng nhìn nữa, nó đến nhà trưởng làng một lát rồi, sẽ về ngay thôi.”
Ta lo liệu cho tiểu thư thay giày ướt, pha trà cho phu nhân và ma ma. Lúc thấy không khí trong sân thật náo nhiệt, ta lẻn ra ngoài. Gió đã ngừng, nhưng tuyết thì mỗi lúc một lớn, rơi thành từng đám rồi tan chảy trong lòng ta. Những gì ta quan tâm không nhiều, chỉ là ngôi làng nhỏ này và mấy con người ở đây.
Ta nhìn về phía xa, nơi một người đang bước đi trong tuyết. Đồng cỏ vàng khô dần bị tuyết trắng bao phủ, trông giống như cảnh tượng khi ta mới đến Đông Bắc năm ngoái. Nhưng chàng trai yếu ớt ngày ấy giờ đã không còn vẻ yếu đuối, mà cao lớn, thẳng tắp như cây bạch dương. Cho đến khi người mặc áo choàng nâu đứng trước mặt ta, chàng nói: “Tiểu Vũ, nàng đến đón ta sao?”
Ta gật đầu: “Ừ, mau đi thôi, trong nhà có hầm một nồi canh. Hôm nay đông người lắm, về muộn thì hết phần đấy.” Ta quay người đi về nhà, bước được vài bước thì phát hiện chàng vẫn đứng yên.
“Sao chàng không đi?”
“Không đi nổi.”
“Hả?”
“Ta đi mệt rồi, tay lạnh, không đi được nữa.”
Ta bất lực, thật sự là bất lực. Ta quay lại nắm lấy tay chàng, từng bước kéo chàng về. Chàng vừa đi vừa kể về những chuyện vụn vặt ở Ninh An thành, nhưng ta chỉ muốn thu hồi lại những cảm nghĩ sâu xa trong lòng mình:
Chẳng có gì gọi là hết yếu đuối, chàng ấy vẫn là người yếu nhất ở làng Bình Sơn!
Lập đông.
Ông bảo đây là một ngày tốt, đất trời chuẩn bị cho mùa đông lạnh giá, mặt đất tích trữ sức sống chờ đợi mùa xuân.
Quả thực là một ngày tốt, lúc này trong làng Bình Sơn không còn gì để bận rộn, nhưng cũng chưa lạnh đến mức không ra khỏi nhà. Mọi người trong làng không nói lời cảm ơn ra miệng, nhưng lại chuẩn bị cho ta và thiếu gia một lễ cưới thật náo nhiệt.
Mấy ngày trước lễ cưới, mỗi gia đình trong làng lần lượt mang đến những món quà giá trị nhất của họ. Làng bắt đầu mổ lợn và cừu, lợn là của nhà trưởng làng, còn cừu là do phủ tướng quân gửi tới. Gà, vịt, cá đều là do các nhà khác đóng góp.
Các chú bác nhà bên cạnh sớm đã dọn dẹp phòng ốc sạch sẽ, chuẩn bị đón khách từ trong thành đến. Bên ngoài nhà treo đèn lụa đỏ, giường trong phòng của thiếu gia cũng được thay chăn gối đỏ. Trên tường và cửa sổ dán chữ “Hỷ” và những hình cắt giấy xinh xắn. Đó là tác phẩm của Thanh Thanh và tiểu thư. Mọi người bận rộn trong gió rét và tuyết rơi, nhộn nhịp như thể chuẩn bị ăn Tết sớm.
Sự náo nhiệt này là dành cho ta, nhưng lại như không liên quan gì đến ta, bởi từ hôm trước mọi người đã không cho ta làm việc gì. Mỗi khi định làm gì đó, ta liền bị ngăn lại, thậm chí bị đuổi vào nhà vì vướng chân vướng tay.
Chiều hôm trước lễ cưới, thiếu gia phải về Ninh An thành. Vì chàng là con rể ở rể, đến đúng ngày cưới, tổ phụ và cô trượng phải đến đón chàng về. Trước khi đi, chàng tìm đến ta, lúc đó ta đang ngồi ôm chú chó nhỏ tắm nắng ở góc khuất gió. Chàng kéo tay ta: “Nàng còn nghĩ ta là bình hoa chỉ để ngắm nữa không?”
“Không, thiếu gia dũng mãnh, thông minh vô song.” Ta trả lời ngay, chẳng cần nghĩ ngợi. Có vẻ như ta đã quen với việc nói những lời dối lòng này rồi.
Chàng nhướng mày, đắc ý: “Ngày mai thành thân, ta sẽ tặng nàng một cái bình hoa thật để nàng ngắm mỗi ngày.”
Ta đáp: “Chẳng có bình hoa nào đẹp bằng thiếu gia, ngày nào cũng nhìn chàng là đủ rồi, không cần tốn kém đâu.”
Thiếu gia: “Hừ!”
Ngoài sân, tiếng Triệu Nhị Thiết gọi thiếu gia vang lên. Chàng bước ra ngoài, nhưng nghĩ gì đó rồi quay lại đứng trước ta hỏi: “Tiểu Vũ, nàng có vui không?”
Ánh nắng mùa đông thật đánh lừa, chỉ cần bất cẩn là sẽ khiến người ta mơ màng. Ta cố mở mắt nhìn chàng, trả lời: “Ừ, vui lắm.”