Đóa Hoa Đẹp Nhất - Chương 2
7
Ta lo liệu hậu sự cho Trình Nghị, lục tìm trong hòm gỗ ra chiếc hộp nhỏ.
Sống ở nhà họ Trình, hắn chưa từng đề phòng ta, ta biết chỗ hắn cất bạc.
Thân hình hắn to lớn, ngay cả quan tài cũng phải đặt làm riêng.
Ta quỳ trước quan tài đốt vàng mã, hai đứa trẻ nước mắt rơi như mưa, sợ tiếng khóc quấy rầy ta, liền cắn chặt tay, cố nén tiếng nấc.
Tim ta đau như cắt.
Người tốt như vậy, sao lại ra đi chứ.
Đều tại ta, nếu ngày hôm trước không để hắn đi câu cá, ta không ăn cháo cá, có lẽ hắn đã không chết.
Nghĩ đến đây, ta tự tát mình hai cái thật mạnh.
Xương Nhi và Thanh Nhi lao vào lòng ta, ba người ôm nhau, khóc không thành tiếng.
Ta không có tiền dựng bia cho Trình Nghị, đành nhờ thư sinh khắc một tấm bia gỗ.
Trình Nghị vừa hạ táng, cha ta tới.
Ông nói muốn đón ta về. Ông gạt hai đứa nhỏ ra, kéo ta vào phòng, đóng chặt cửa.
“A Hoa, con định ở lại làm kế mẫu sao? Đừng trách cha không tính cho con. Làm kế mẫu không dễ đâu, cực khổ nuôi bọn chúng lớn, người ta sau này chưa chắc đã nhận con là mẹ.”
Ta biết, bọn trẻ đều đang áp tai vào cửa, lén nghe chúng ta nói chuyện.
Cha kéo tay áo ta, nói: “Con là quả phụ của hắn, nghe cha nói này. Bán căn nhà và mảnh ruộng đi, đưa hai đứa trẻ đến Từ An Viện. Con theo cha về nhà, có bạc, có cha làm chỗ dựa, không chừng còn có thể tái giá một nhà tử tế.”
Ta trầm mặc, rồi quay đầu lấy ra từ dưới gối thanh đoản đao mà ta đã giấu trong yếm từ khi xuất giá.
Ta chĩa lưỡi dao về phía ông: “Cút, cút đi cho ta.”
Mắt cha bỗng chốc sửng sốt, cười xòa lấy lòng: “A Hoa, cha cũng chỉ tính cho con thôi. Đừng kích động, có gì chúng ta về nhà rồi đóng cửa nói chuyện cha con với nhau.”
“Nói gì cũng vậy thôi. Thi thể Trình Nghị còn chưa lạnh, mà cha đã bảo ta bán gia sản của hắn, đuổi hai đứa trẻ đi, theo cha về nhà. Về rồi thì sao? Cha sẽ tìm cách lừa số bạc trong tay ta, đem đi đánh bạc, thua bạc rồi lại muốn bán ta thêm lần nữa.
“Nếu không phải vì cha, Trình Nghị đã không cưới ta, càng không phải vì muốn bắt cá cho ta ăn mà mạo hiểm dầm mưa, đêm khuya ra ao câu cá thì hắn đã không chết, bọn trẻ cũng không đến nỗi mất cha.”
“Cha là kẻ đầu sỏ gây tội, còn dám lớn tiếng ở nhà hắn, không sợ nửa đêm hắn trở về đòi mạng sao!”
Ta giơ cao đoản đao, ép sát từng bước, mặt cha tái nhợt, mồ hôi lạnh đổ đầy trán, hoảng sợ lùi về phía sau.
Ông mở cửa phòng, hai đứa trẻ tròn mắt hoảng hốt nhìn ông.
Ông vội bước ra khỏi sân, miệng hét lớn: “Đồ điên, Lâm Hoa là đồ điên, khắc chết chồng, còn muốn giết cha!”
Ta chạy đến khóa chặt cổng sân lại.
Hai đứa trẻ sợ hãi, co rúm thành một đám.
Ta vứt đoản đao trong tay, ngồi xổm xuống, dang tay ôm chúng: “Lại đây, sau này trong viện này, chỉ còn ba mẹ con chúng ta thôi.”
Chúng ngơ ngác nhìn nhau, rồi nhào vào lòng ta.
Giọng trẻ con non nớt gọi: “Mẹ ơi.”
Ta thở dài một hơi.
Ngày tháng sau này, e rằng càng gian khó hơn.
8
Số bạc trong hộp gỗ của Trình Nghị đã dùng hết một nửa.
Xương Nhi đến tuổi đi học, ta định cho nó đến trường.
Nó lắc đầu quầy quậy: “Mẹ ơi, con không đi học đâu, con phải ở nhà chăm sóc mẹ và muội muội. Xuân thẩm bảo, trong nhà chỉ còn mình con là nam tử hán thôi.”
Ta kiên nhẫn nói: “Nếu con thực sự muốn mẹ và muội muội sống tốt, con phải đi học, đỗ đạt làm quan, sau này làm vị quan tốt vì dân mà lo. Mẹ và muội muội mới có thể được nhờ.”
Nộp học phí xong, trong hộp gỗ gần như chẳng còn gì.
Ta đành cầm cuốc ra đồng.
Nhưng ruộng nhà họ Trình, ngoài mảnh đất nhỏ trồng rau thường ngày, còn lại đã bỏ hoang lâu lắm.
Hạt giống gieo xuống, cây con chẳng mọc lên nổi.
Nhìn gia cảnh ngày càng túng quẫn.
Ta phát hiện ở góc sân có chiếc cối đá bị bỏ không từ lâu.
Ngày xưa, mẹ ta từng nuôi sống ta và đệ đệ nhờ bán đậu phụ.
Khi đó, cha chưa mắc thói cờ bạc.
Ông là tú tài trẻ nhất trong huyện.
Nhưng thi hương hết lần này đến lần khác đều rớt, người cũng đâm ra chán nản.
Ngày ngày vùi đầu trong sòng bạc.
Bọn đòi nợ thường xuyên đến nhà đe dọa.
Ta nắm tay mẹ, bảo bà đi trốn.
Nhưng bà bảo ta rằng, cha chỉ là chưa vượt qua được nỗi thất bại, cho ông thời gian, ông sẽ tốt hơn.
Ai ngờ, vì lòng mềm yếu mà mẹ phải mất mạng.
Người sòng bạc muốn kéo bà vào kỹ viện, ta một tay bám chặt vào cối đá, tay kia giữ chặt lấy mẹ.
Cha chỉ đứng bên cạnh, không làm gì.
Cuối cùng, ta cũng không địch nổi sức của mấy gã nam nhân.
Mẹ chết trên giường ở kỹ viện.
Thân không mảnh vải, người đầy vết bầm.
Ta mượn xe đẩy của bà lão đổ phân đêm, kéo xác mẹ lên núi sau chôn cất.
Về nhà, ta lấy đá mài, mài thanh đoản đao của ta.
Ta muốn giết cha.
9
Cha trở về, cõng đệ đệ ta trên lưng.
“Mộc Dương ngất xỉu trước cổng trường, đại phu bảo bị nhiễm bệnh dịch.”
Ta giấu đao đi, không cởi áo, thức trắng đêm chăm sóc đệ đệ.
Vì muốn mua thuốc cho đệ đệ, cha lại lừa ta, đem bán ta đi.
Bỏ thuốc mê, trói chặt ta, nhét vào kiệu hoa.
Nếu không gặp được Trình Nghị, e rằng số phận của ta chẳng hơn gì mẹ.
Bây giờ, ta đứng trước cối đá, dường như đang bước đi trên con đường mà mẹ từng đi qua.
Dù thế nào, ta cũng phải bước tiếp, phải sống.
Vì hai đứa con của ta.
Ta quyết định ra chợ bán đậu phụ thối.
Ở quê mẹ ta, vùng Tương Châu, người ta rất thích ăn món này.
Đậu phụ lên men, chiên giòn, bên ngoài giòn rụm, bên trong mềm béo, rưới lên gia vị, mùi thì thối, nhưng ăn lại thơm.
Ngon hơn vô số sơn hào hải vị.
Khi ta chiên đậu phụ, mùi thơm hấp dẫn hàng xóm xung quanh.
Xương Nhi và Thanh Nhi bịt mũi, hỏi: “Mẹ ơi, mẹ làm gì mà hôi thế.”
“Lâm nương tử, món này của ngươi thối quá.”
Ta bưng hai bát đậu phụ thối, đưa cho họ: “Nếm thử đi, không thối chút nào, ngon lắm.”
Xuân thẩm cẩn thận cắn một miếng, mắt trợn tròn, rồi đón lấy bát của ta.
Ta biết ngay là sẽ thành công.
Một miếng đậu phụ chỉ bán được một văn, một bát đậu phụ thối của ta chỉ có ba miếng lại có thể bán được năm văn.
Ta bày sạp ở chợ.
Nhưng các sạp khác chê món của ta bốc mùi, hợp nhau đuổi ta đi.
Ta không giận, bưng đậu phụ thối tặng từng nhà, mời họ nếm thử.
Ban đầu họ còn dè chừng, sau dần chấp nhận, có người còn đến ủng hộ ta.
Tiếng lành đồn xa, sạp của ta ngày càng đông khách.
Mẹ từng bảo, làm ăn phải không sợ thiệt, mặt dày một chút.
Ngày nào ta cũng chuẩn bị vài miếng đậu phụ thối mời khách nếm thử. Hễ ai đi qua, ta đều nhiệt tình mời họ ăn.
Dần dần, khách quen càng nhiều.
Cuộc sống cũng dần khởi sắc.
Vậy mà ông cha không biết điều của ta, lúc này lại gây rối.
10
Nhân lúc ta vào làng mua đậu, ông dùng kẹo hồ lô dụ Thanh Nhi mở cổng.
Vào được nhà, ông lục tung hòm tủ, tìm thấy một chiếc vòng bạc trong hộp gỗ Trình Nghị từng cất bạc.
Ta đoán, đó hẳn là di vật của mẹ Thanh Nhi.
Khi ta cầm dao xông đến cửa tiệm cầm đồ, ông ta đã cầm cố chiếc vòng, cười hí hửng đếm tiền.
“Trả bạc cho ta.”
Ông ta mạnh tay đẩy ta ngã xuống đất, ta bò dậy, giơ dao lên.
“Mau trả bạc cho ta, chuộc lại vòng bạc.”
“Làm gì đây? Ban ngày ban mặt, ngươi còn muốn giết ta sao? Mọi người nhìn rõ đi, người đàn bà này khắc chết chồng, giờ còn muốn giết cha.”
Người qua đường chỉ trỏ bàn tán.
Ta cuống đến dậm chân, nước mắt trào ra: “Chiếc vòng ấy là di vật của mẹ hai đứa nhỏ, là đồ cưới để lại cho Thanh Nhi. Dù lúc khó khăn nhất, Trình Nghị cũng không nỡ cầm cố. Nếu hôm nay ngươi không trả, ngày mai ta sẽ kiện ngươi lên quan phủ.”
Cha ta cười đắc ý: “Tốt thôi, ngươi cứ đi kiện, con gái kiện cha ruột là bất hiếu, không sợ bị sét đánh sao?”
“Kẻ nên bị sét đánh, là ngươi.”
Tay ta siết chặt chuôi dao đến trắng bệch, đang định lao lên, Xuân thẩm đã giữ chặt ta lại.
“Lâm nương tử, đừng kích động. Nếu ngươi vào đại lao, hai đứa nhỏ biết phải làm sao?”
Ta cắn chặt môi, nếu không đoạn tuyệt hẳn với ông ta, sau này sẽ chẳng được yên.
Ta cắn răng, quay người đi tìm thư sinh ở cuối phố chuyên viết thư thuê.
Thư sinh đang thu dọn đồ, ta đặt dao lên bàn, thư sinh Lục Hoài Cảnh giật mình run rẩy.
“Nương tử làm gì vậy?”
“Giúp ta viết đơn kiện.” Ta ngồi phịch xuống ghế đối diện, tức giận nói.
Hắn nhíu mày: “Đơn kiện phải tìm trạng sư.”
“Ta không có nhiều bạc như vậy, ta nói, ngươi cứ viết.”
Viết xong đơn, ta chạy đến nha môn, cầm tờ đơn kiện cha ruột mình lên công đường.
11
Huyện lệnh xem xong đơn kiện, vuốt râu, nói: “Lâm Hoa, ngươi có biết, nữ nhân kiện cha, huynh đệ hay phu quân là trái với luân thường đạo lý, trước tiên phải chịu hai mươi roi.”
Ta gật đầu, lúc viết đơn, Lục Hoài Cảnh đã nói qua điều này.
“Tốt, nếu ngươi khăng khăng muốn kiện, thì trước hết chịu phạt đi.”
“Khoan đã, đại nhân.” Lục Hoài Cảnh bước ra từ trong đám đông, “Nếu phạt trước, đại nhân còn thẩm vấn nguyên cáo thế nào? Xin đại nhân khai ân, đợi xử xong hẵng phạt cũng không muộn.”
Lục Hoài Cảnh là thư sinh nổi danh khắp mười dặm tám hương, huyện lệnh từng khen văn chương của hắn.
Còn mong hắn thi đỗ trạng nguyên, làm rạng danh huyện Tùng Sơn.
Huyện lệnh tất nhiên nghe lời hắn.
Ngài sai người bắt cha ta, lại gọi chủ tiệm cầm đồ và Xuân thẩm đến làm chứng.
Xuân thẩm còn dắt theo hai đứa nhỏ.
Nhân chứng, vật chứng đầy đủ, mặt cha ta trắng bệch, quỳ xuống van xin.
“Lâm Uy, ngươi và ta từng là đồng môn, có tình bạn đồng học, nhưng giờ ta cũng chẳng giúp nổi ngươi. Ngươi nghiện cờ bạc, bán vợ bán con, trộm cắp, việc nào cũng phạm pháp. Bản quan phạt ngươi hai mươi roi, giam hai năm.”
“Khoan đã, đại nhân. Hôm nay, ta muốn nhờ mọi người ở đây và ngài làm chứng. Ta với Lâm Uy đoạn tuyệt quan hệ cha con, sống chết không liên quan.”
Ta lấy từ trong tay áo ra tờ đoạn tuyệt mà Lục Hoài Cảnh vừa viết, kéo tay Lâm Uy đóng dấu tay lên.
Ông ta nước mắt giàn giụa, ta cũng không hề động lòng.
Trơ mắt nhìn ông bị đánh đến da thịt rách toạc, máu chảy đầm đìa, rồi bị lôi vào ngục.
Huyện lệnh nhìn ta, ánh mắt sâu thẳm: “Lâm Hoa, giờ đến lượt ngươi.”
Ta bảo Xuân thẩm dẫn hai đứa nhỏ đi, nhưng chúng nhất quyết không chịu.
Xương Nhi còn nhỏ, vậy mà dõng dạc nói: “Mẹ ta vô tội, sao lại phải chịu đòn, mẹ ta đến để kêu oan, không phải để chịu phạt.”
“Nhóc con, mới mấy tuổi đầu mà dám nói lý với bản quan?”
“Phu tử nói, có lý thì đi khắp thiên hạ. Dù là quan lớn, nếu mẹ ta không sai, ta cũng sẽ nói vậy.”
Ta ngồi xổm xuống, bịt miệng Xương Nhi.
Thanh Nhi ngây thơ bước lên công đường, nói: “Quan gia ơi, có thể không đánh mẹ ta không, ta mời ngài ăn kẹo hồ lô được không?”
Huyện lệnh cười ha hả: “Lâm Hoa, ngươi dạy con rất giỏi.”
Ngài nháy mắt ra hiệu, quan sai to cao vạm vỡ liền giao gậy cho vị quan sai khác.
Từng gậy, từng gậy đánh xuống người ta, giơ cao mà hạ thấp.
Xong xuôi, ta dắt hai đứa nhỏ, lảo đảo về nhà.
Dưới ánh trăng, một bóng người cao gầy đứng trước cửa.