Đào Đào - Chương 7
16.
Tưởng rằng phu nhân đã bị giam trong tử lao, ai ngờ nàng lại bị nhốt trong hậu cung của tên Hoàng đế già kia. Một bậc đế vương, lại dám cưỡng đoạt thê tử của thần tử. Xem ra tội danh tham ô của Phó đại nhân cũng là do tên Hoàng đế này sắp đặt.
Phu nhân vốn yêu tự do như cánh chim trời, cá nước, nay lại bị giam cầm như một con chim trong lồng son, e rằng còn đau khổ hơn cả cái chet.
Trên đường về nhà, ta và thiếu gia đều im lặng, không ai nói lời nào. Vào nhà, ta mới lên tiếng: “Phó đại nhân phải làm sao đây?”
Dưới ánh nến leo lét, nửa khuôn mặt của thiếu gia chìm trong bóng tối, khó mà nhìn rõ.
“Hai người bọn họ tình thâm nghĩa trọng, tỷ tỷ ta tính tình cương nghị, đến nay chưa t//ự v//ẫn ắt là vì muốn bảo toàn cho huynh ấy. Ngươi không cần phải đưa bạc vào ngục nữa. Chỉ cần tỷ tỷ còn ở trong hậu cung, huynh ấy sẽ bình an vô sự.”
Trong đầu ta như một mớ hỗn độn.
Ta vẫn nghĩ rằng, mỗi ngày ta gắng sức kiếm bạc, sớm muộn gì cũng có thể chuộc phu nhân ra. Nhưng giờ đây, phu nhân bị giam cầm trong cung cấm cao vời vợi, ta không quyền không thế, có thể làm được gì?
Bỗng nhiên, ta cảm thấy có gì đó chạm nhẹ lên đầu mình. Nhìn lên, thấy thiếu gia đã ngồi xuống bên cạnh, tay nhẹ nhàng vuốt tóc ta. Ta ngẩng đầu nhìn hắn, thì hắn lại vội rụt tay về, có vẻ không thoải mái.
“Chắc ngươi đói rồi, để ta nấu mì cho ngươi ăn.” Giọng nói của hắn nhẹ nhàng, ấm áp, khác hẳn mọi khi, rồi tập tễnh bước về phía bếp.
Từ ngày ta vào Phó phủ đến nay, chưa từng thấy thiếu gia vào bếp. Trong lúc tâm trạng rối bời, ta cứ thế đi theo hắn mà không suy nghĩ.
Thiếu gia dáng người cao lớn, đôi tay đặt hờ lên thành bếp, trên tay lấm tấm bụi gỗ và bột mì dính dính, hắn cúi đầu nhìn vào nồi, vẻ mặt bình tĩnh thản nhiên.
Nhưng khi ta nhìn vào nồi, thấy nước trong nồi đầy lênh láng, bột mì trắng xóa nổi lềnh bềnh trên mặt nước. Hắn nghĩ mì sẽ tự nhào nặn trong nồi sao?
Ta khẽ thở dài: “Để ta làm cho.”
Thiếu gia quay lại nhìn ta, ánh mắt lộ chút lúng túng dưới ánh lửa bập bùng từ bếp. Ta đẩy hắn ra, đổ nước trong nồi đi, rồi múc lại hai gáo nước mới, sau đó bắt đầu nhào bột.
Dù giờ ta cũng kiếm được ít bạc, nhưng vì không để tâm đến chuyện ăn uống, trong nhà chẳng còn chút thịt nào. Nghĩ một hồi, ta đành sang nhà bên cạnh hái vài cọng rau xanh.
Khi mì đã chín, ta quay người lại thì bất ngờ đụng phải một bức tường thịt. Ta quay lại quá nhanh, trán đập vào cằm của hắn.
Thiếu gia cao lớn, còn chưa đứng thẳng người hẳn mà đã cao hơn ta một cái đầu. Một mùi hương quen thuộc thoang thoảng xung quanh, khiến ta không kiềm được mà nghĩ: Liệu người ta có bốc mùi không nhỉ?
Cả ngày ở bên phân bón, có khi nào mùi hôi đã thấm vào người mà ta không nhận ra không? Ta đang mải suy nghĩ về vấn đề mùi hương, không chú ý rằng thiếu gia vẫn không tránh ra, cứ đứng chắn trước mặt ta như vậy.
Khi ta định đưa tay đẩy hắn ra thì chợt nghe hắn kêu “A” một tiếng, rồi cả người ngã nhào vào ta.
Ta lúng túng đỡ lấy thiếu gia, nghĩ bụng: Không lẽ vết thương cũ lại tái phát?
Hắn vòng tay ôm lấy ta, đầu tựa lên vai, hơi thở nóng hổi phả vào cổ ta, giọng hắn khẽ rên rỉ đầy ủy khuất bên tai: “Chân ta đau quá, đột nhiên chẳng còn chút sức lực nào.”
“Chẳng phải sắp lành rồi sao? Sao lại tái phát tiếp?” Ta lo lắng muốn cõng hắn vào trong nhà.
Thiếu gia siết chặt vòng tay, đầu càng rúc sâu vào cổ ta hơn: “Đau lắm, đừng cử động, chân ta bị chuột rút, để ta nghỉ chút.” Giọng hắn nghe như đang cố nhịn đau.
Ta đành ngoan ngoãn đứng yên, chờ cơn đau của thiếu gia qua đi. Nhưng chờ mãi, đã gần nửa canh giờ mà hắn vẫn dựa vào người ta. Thiếu gia nặng quá, cả thân mình ép xuống, khiến chân ta gần như tê dại.
Nước trong nồi sôi tràn ra ngoài.
Ta nghiêng đầu, nhìn thoáng qua nồi mì, rồi hỏi: “Ngươi còn đau không? Ta phải vớt mì ra rồi.”
Vừa nói, ta vừa quay lại, nhưng trước mắt chỉ là bóng tối, trên môi thoáng qua một cảm giác mềm mại, ấm áp.
Rồi thiếu gia buông ta ra, đứng thẳng dậy, đôi mắt hơi ửng đỏ.
Ta ngạc nhiên, chẳng lẽ đau đến mức này sao?
Chúng ta ngồi trong sân, dưới ánh trăng, cùng ăn một bát mì chay, thanh đạm mà vô vị.
Hôm sau, khi trời vừa tờ mờ sáng, ta tỉnh dậy, thì thiếu gia đã không còn trên giường. Chỉ để lại một tờ giấy với mấy dòng chữ:
[Không cần tiếp tục vướng bận chuyện này, hai người bọn họ ta sẽ tự cứu.]
[Cảm tạ ân chăm sóc, nếu có ngày tái ngộ, nhất định sẽ báo đáp ơn cứu mạng.]
17.
Từ sau hôm ấy, ta chưa từng gặp lại Tiểu Bảo. Không còn mục tiêu kiếm năm trăm lượng nữa, ta bỗng chốc như mất đi phương hướng.
Ta chẳng biết mình nên làm gì, cũng chẳng rõ còn có thể làm được gì nữa.
Cả thôn lưu dân này đáng lẽ phải đổi tên thành thôn Phân Bón mới phải, bởi gần như mọi người trong thôn đều cùng ta lo liệu việc này.
Mỗi ngày, ta vẫn dậy từ khi trời còn chưa sáng, rồi làm việc đến đêm khuya mới trở về phòng nghỉ ngơi.
Chỉ là lúc nào cũng cảm thấy thiếu vắng điều gì đó, như thể cuộc sống mất đi một phần quen thuộc.
Những cuốn sách Tiểu Bảo đã đọc qua, bút lông hắn từng dùng vẫn nằm trên bàn.
Thật thú vị, chiếc bút lông ấy là do một đại nương trong thôn dùng lông heo làm cho hắn. Bên giường còn có nhiều món đồ nhỏ nhặt, nào là túi hương do Trương quả phụ tặng, bao tay của A Nguyên, và vài chiếc lá khô do tiểu nữ nhi của lão Vương tặng. Cô bé nhỏ tuổi, chưa biết gọi cha mẹ, đã biết bám lấy chân Tiểu Bảo mà gọi “ca ca”.
Cạnh giường còn có một chiếc cuốc, là quà của mấy vị thúc bá trong thôn vì thấy Trương quả phụ thường đến thăm thiếu gia.
Khi biết chuyện, họ kéo nhau đến nhà, dọa dẫm hắn rằng “vai không gánh nổi, tay không xách được”, còn gọi hắn là “tiểu bạch kiểm”. Trước khi rời đi, họ để lại chiếc cuốc, thách thức hắn ngày mai ra đồng phân cao thấp.
Lúc đó, mặt thiếu gia cau có chẳng nói lời nào, ta cứ ngỡ hắn không bận tâm. Nhưng không ngờ sáng hôm sau, ta lại thấy hắn lén lút tập cày sau vườn. Chỉ tiếc là ta chưa kịp thấy cảnh hắn ra đồng cày đất, chắc hẳn sẽ rất buồn cười.
Dù tâm trí ta mơ màng, nhưng thân xác lại quen với việc liên tục lao động, kiếm bạc không ngơi nghỉ.
Vài ngày sau, ta đổ bệnh. Thân thể mệt mỏi, ta xách một túi hành lý nhỏ, ngồi xe bò về quê.
Nghĩ cũng thật nực cười, hai nữ nhân đánh nhau suốt nửa đời người là mẹ ta và đại phu nhân, nay lại hợp tác vì một tiểu thiếp mới của cha. Tuy vậy, mục tiêu của họ không phải là người thiếp trẻ kia, mà là cha ta – kẻ bạc tình ấy.
Giờ ta đã hiểu rõ, nam nhân chỉ cần còn sống thì lòng dạ tồi tệ ấy chẳng bao giờ thay đổi.
Mẹ ta có vẻ béo lên đôi chút. Dù trước mặt đại phu nhân vẫn còn hơi khúm núm, nhưng điều bất ngờ là họ lại có thể ngồi cùng một bàn, nhấm nháp hạt dưa mà không hề tranh cãi.
Ta trở về vốn định đưa mẹ đi, nhưng bà chỉ thở dài một tiếng.
“Mẹ già rồi, cả đời sống trong ngôi nhà này, cội rễ đều ở đây, chẳng đi đâu được nữa.”
“Đại phu nhân cũng không còn đáng ghét như trước. Dù khuôn mặt vẫn cau có, nhưng ít ra không thiếu thốn ăn mặc cho mẹ con ta.”
“Có lúc bà ấy còn hâm rượu, kéo mẹ cùng ngồi mắng cha con”
“Mẹ đời này chẳng mong gì hơn, chỉ hy vọng con sống tốt là được.”
Mẹ đã có vài sợi tóc bạc, mỗi lần cười, nơi khóe mắt bà lộ ra những nếp nhăn nhỏ. Ta hỏi mẹ, nếu không còn mục tiêu thì phải làm sao?
Mẹ ta phơi áo, tay đập nhẹ lên vải, nói với vẻ không chút bận tâm: “Con à, vì đọc nhiều sách quá nên mới suy nghĩ nhiều như vậy.”
“Con người sống chỉ vì vài mảnh bạc lẻ, ăn bữa cơm ngon, uống bát rượu thơm.”
“Đừng nghĩ ngợi lung tung nữa, sống là có mục tiêu rồi.”
Ta ở nhà dưỡng bệnh vài hôm, lúc đến chỉ có một cái bọc nhỏ, khi đi thì trong tay lại có đến ba cái, một trong số đó còn có túi bánh do đại phu nhân tặng. Mặt trời đúng là mọc đằng Tây rồi.
Trở về thôn, thấy rất nhiều thúc bá, đại thẩm đang đợi trước cổng viện của ta. Lúc đó, ta mới vỗ trán nhớ ra mình quên trả tiền lương tháng này cho họ.
Nhìn hàng người xếp dài đợi để nhận tiền, lòng ta lại dần dần dâng lên một luồng sinh khí mới.
Ngay cả mẹ và đại phu nhân – hai kẻ thù không đội trời chung – cũng có thể hóa giải ân oán mà sống hòa thuận thì tường cung dù có cao đến đâu đi nữa, cũng biết đâu một ngày kia, ta giàu sang đến mức ngay cả Hoàng đế cũng phải nể ta ba phần.
Chỉ cần phu nhân còn sống, còn sống thì sẽ có hy vọng. Nàng sống là mục tiêu của ta.
Mẹ nói đúng, cứ làm tốt những việc trước mắt, từng bước một tiến lên, mãi mãi tiến về phía trước.