Cứu Vớt Nhân Vật Phản Diện - Chương 4
12
Ta không ngờ rằng mình có thể tỉnh lại lần nữa.
Khi mở mắt, ta thấy mình đang nằm sấp trên giường, cơn đau từ lưng nhức nhối, thấu đến tận xương. Bên giường là Kỷ Từ đang nắm chặt tay ta, đôi mắt thâm quầng, ngủ thiếp đi với giấc ngủ chập chờn.
Trong khoảnh khắc ấy, mũi ta cay xè, nghẹn ngào bật ra một tiếng nức nở.
Kỷ Từ lập tức tỉnh lại, ngẩng đầu nhìn ta, ánh mắt tràn ngập niềm vui.
“A tỷ, tỷ tỉnh rồi!”
Ta có rất nhiều câu hỏi muốn hỏi, như là hắn có bị thương không, và làm sao hắn đưa được ta ra khỏi đó.
Nhưng cổ họng ta khô khốc đến mức không thể nói nên lời.
Kỷ Từ khẽ chạm vào mặt ta.
“A tỷ có đói không? Để ta đi nấu ít cháo cho tỷ.”
Nói xong, Kỷ Từ rời khỏi phòng, một lát sau thì một người trông như đại phu bước vào.
Ông kiểm tra vết thương sau lưng ta, nói:
“Cô nương, vị tiểu công tử ấy thật sự đối xử rất tốt với cô.
“Hôm đó nghe tin trên núi có bọn cướp, cửa hàng trong trấn đóng cửa sớm, vậy mà cậu ta cõng cô xuống núi, đi gõ cửa từng nhà.
“Khi gõ đến nhà ta, ta vừa mở cửa đã thấy cậu ấy toàn thân đẫm máu, thậm chí còn quỳ xuống cầu xin ta cứu cô.”
“Hai ngày đầu tiên sau khi băng bó, cô liên tục sốt cao, cậu ấy không ngủ không nghỉ luôn túc trực bên cạnh, thấy môi cô khô là chầm chậm cho cô uống từng giọt nước. Ta khuyên cậu ta nghỉ ngơi, nhưng cậu ấy một mực không chịu rời đi.
“Cậu ấy sợ đến phát hoảng, cứ như chỉ cần nhắm mắt, cô sẽ không bao giờ trở về nữa.”
Ta không thể nói gì, chỉ biết lặng lẽ rơi nước mắt.
Khi Kỷ Từ bưng cháo trở về, thấy ta đang khóc, liền nắm chặt lấy tay ta.
“A tỷ, sao lại khóc? Có phải là vết thương đau lắm không?”
Ta lắc đầu.
Vì sao ta khóc, ngay chính ta cũng không rõ.
Có lẽ vì trước khi xuyên đến đây, ta và cơ thể này đều sống cô độc một mình.
Cha mẹ qua đời, một mình đi làm giấy chứng tử cho họ, một mình đi làm, một mình ăn uống, ngủ nghỉ.
Cô độc và lẻ loi.
Sau khi xuyên qua, ta không muốn sống như vậy nữa.
Vậy nên ta đã cho Kỷ Từ một củ khoai lang nướng.
Ta muốn hắn về nhà với ta, muốn có một người bên cạnh, đồng hành cùng ta.
Thực ra, từ đầu đến cuối không phải ta cứu hắn.
Là ta, ta muốn có một người đến cứu mình.
Ngay từ lúc đầu, là ta cần hắn.
Ta càng khóc lớn, Kỷ Từ càng luống cuống, hắn nhẹ nhàng lau nước mắt cho ta, khẽ khàng an ủi.
Cho đến khi ta ngừng khóc, Kỷ Từ cũng vì quá mệt mà ngủ gục bên giường, tay vẫn nắm chặt tay ta không buông.
13
Khi đã hồi phục phần nào, ta hỏi Kỷ Từ về cách hắn đưa ta thoát hiểm.
Kỷ Từ nói rằng, nhóm áo đen kia nhận ra đã giết nhầm người nên vội vàng bỏ đi, tha cho hắn một mạng.
Ta mơ hồ cảm thấy có gì đó không đúng, nhưng thân thể suy yếu không cho phép ta nghĩ sâu thêm, nên cũng tạm bỏ qua.
Đến ngày thứ bảy sau khi tỉnh lại, Kỷ Từ cõng ta trở về nhà.
Kỳ thi Hương sắp đến, ta khuyên hắn tiếp tục đọc sách, nhưng hắn nhất quyết ở nhà chăm sóc ta.
Dù chậm trễ mấy ngày, khi kết quả thi Hương công bố, hắn vẫn là người đỗ đầu.
Quả nhiên không hổ danh đại phản diện trong sách.
Trong nguyên tác, cuối cùng hắn trở thành thủ lĩnh Huyền Y Vệ, quyền khuynh triều dã, với trí tuệ sắc bén và mưu kế không tưởng, không biết đã gây ra bao nhiêu rắc rối cho phe chính diện.
Giờ đây hắn chọn con đường khoa cử, thì khó khăn cũng không đáng kể gì.
Ta hoàn toàn yên tâm.
Sau khi vết thương lành hẳn, ta lại mở quầy đồ ăn vặt như thường lệ.
Kinh doanh vẫn đông khách, nhất là người trẻ tuổi chiếm đa số.
Ta vừa hát vừa chiên khoai tây, nghĩ bụng sau khi Kỷ Từ tan học, ta sẽ đóng quầy về nhà.
Bỗng nghe thấy một tiếng quát lớn bên tai.
“Đồ Bạch Nhãn Lang vong ân phụ nghĩa! Dám bỏ mặc bá mẫu ngươi, một mình lên trấn hưởng thụ sung sướng!”
Nghe giọng có chút quen thuộc, ta quay đầu lại và thấy Kỷ Từ đang bị một phụ nhân trung niên quấy rối không buông.
Đó chính là bà đại bá mẫu của hắn, Lý thị.
Bà ta mặc bộ quần áo đầy miếng vá, gầy gò hốc hác, một chân không biết vì sao bị què, đang chống gậy, tay còn lại túm chặt vạt áo của Kỷ Từ, vừa lải nhải vừa khóc lóc.
“Khi cha mẹ ngươi qua đời, đại bá của ngươi đã dè xẻn từng miếng cơm để nuôi ngươi, vừa bị ngươi khắc chết thì ngươi liền chạy theo người phụ nữ này, còn ta thì phải đi ăn xin để sống, chân què mà ngươi cũng chẳng đoái hoài. Đồ bất hiếu, mau đưa bạc ra đây, không thì theo ta về thôn!”
Lời lẽ của Lý thị đã thu hút đám đông hiếu kỳ đến xem.
Không thể chịu đựng thêm, ta chen vào đám đông, kéo bà ta ra.
“Bà còn biết xấu hổ sao? Sau khi cha Kỷ Từ mất, các người chiếm đoạt nhà hắn, đuổi hắn ra sống ở ngôi miếu đổ nát giữa mùa đông, chỉ mong hắn chết đi, bây giờ thấy hắn sống tốt thì chạy đến vòi tiền, bà không biết nhục à?!”
Ta hiếm khi nổi giận chửi mắng, nhưng lần này thật không nhịn được.
Mặt Lý thị thoáng chốc đỏ bừng, rồi lại nhanh chóng che giấu.
“Ngươi nói bậy! Tất cả là do con hồ ly tinh như ngươi dụ dỗ, Kỷ Từ mới bỏ làng ra đi, có liên quan gì đến ta!”
Lý thị không chỉ mắng, mà còn giơ gậy đập về phía ta.
Bà ta ra tay quá nhanh, ta chưa kịp tránh.
Ta đã chuẩn bị tâm lý chịu một đòn.
Không ngờ Kỷ Từ bất ngờ chắn trước mặt, che chở cho ta.
Chiếc gậy quật mạnh lên đầu hắn.
Thấy máu chảy ra, ta vội kéo hắn, định đưa hắn đến y quán chữa trị.
Không chỉ vì lo cho vết thương của hắn, mà còn vì ta có chút sợ hãi.
Trong nguyên tác, Kỷ Từ vốn là kẻ lạnh lùng, nhẫn tâm, kẻ nào dám đụng vào hắn chắc chắn sẽ bị hắn chém thành từng mảnh ngay tại chỗ.
Nhưng Kỷ Từ không hề tỏ vẻ tức giận, cũng không đi theo ta.
Hắn nhẹ nhàng giữ lấy ta, bỏ qua vết thương vẫn đang chảy máu trên trán, chỉ lạnh lùng liếc nhìn Lý thị, rồi báo quan.
“Bà có thể đánh ta, chửi ta, nhưng dám đụng vào a tỷ của ta thì không thể tha thứ!”
Kỷ Từ điềm tĩnh đến quan phủ, đưa Lý thị ra công đường.
Tại công đường, hắn trình bày rành mạch rõ ràng việc gia sản của gia đình hắn bị đại bá chiếm đoạt. Lý thị muốn phản bác, nhưng sự thật là bằng chứng không thể chối cãi.
Đúng sai rõ ràng như ban ngày.
Dù Lý thị không cam lòng, căn nhà mà họ đã chiếm đoạt cuối cùng cũng trở về với Kỷ Từ.
Hai gian nhà gạch không đáng tiền, nhưng rốt cục Kỷ Từ cũng đã đòi lại được công đạo cho mình.
Khi rời khỏi công đường, sắc mặt của Lý thị xanh mét đáng sợ. Bà ta còn muốn bám lấy không buông, nhưng Kỷ Từ nay đã không còn là cậu thiếu niên yếu đuối, dễ dàng để người khác mặc sức chèn ép. Cuối cùng, Lý thị đành hậm hực rời khỏi trấn.
Đêm ấy, ta và Kỷ Từ cùng nhau thắp nén hương cho cha mẹ hắn.
Lúc đầu, khi Kỷ Từ dọn vào ở cùng ta, hắn đã giấu bài vị của cha mẹ mình trong phòng, chắc vì sợ ta chê là không may mắn.
Nhưng làm sao ta lại nghĩ thế được?
Vì thế, ta sắp xếp một căn phòng nhỏ, đặt hai bài vị một cách trang trọng, mỗi dịp mùng một, ngày rằm đều cúng bái.
Có lẽ vì chuyện này mà mắt Kỷ Từ đỏ hoe, giống như chú thỏ con suốt cả một thời gian dài.
Ra khỏi phòng nhỏ, ta liếc nhìn miếng băng vải trên trán hắn, không khỏi xót xa hỏi một câu: “Có đau không?”
Kỷ Từ nhoẻn miệng cười: “Không đau.”
Hắn vui vẻ đến ngây ngô, rạng rỡ nói: “A tỷ, lần này, ta đã bảo vệ được tỷ rồi.”
Lúc ấy, ta chợt chẳng biết phải nói gì cho phải.
Hắn cười ngốc nghếch như vậy, chẳng chút nào giống với một đại phản diện trong sách cả.
Một thời gian ngắn sau đó, chúng ta thu dọn hành trang, chuyển đến kinh thành.
Vì Kỷ Từ cần tiếp tục thi cử.
Ta dùng số bạc tích góp được, thuê một căn nhà rồi mở thêm một cửa hàng, chuyên bán những món ăn nhẹ của ta.
Cuộc sống vẫn diễn ra bình dị như trước.
Ba năm sau, Kỷ Từ từ Giải nguyên thành Hội nguyên.
Hắn dung mạo tuấn tú, học vấn uyên thâm, đúng là một lang quân có tài có mạo, chẳng ai không yêu thích.
Trong kinh thành, không ít các thiếu nữ đều âm thầm thương mến Kỷ Từ.
Nhờ hắn mà cửa hàng của ta làm ăn phát đạt vô cùng.
Một hôm, trên đường từ học đường trở về, có một cô nương rụt rè đưa cho hắn một chiếc khăn tay.
Kỷ Từ lễ phép mỉm cười nhưng không nhận, bước chân vững vàng nhanh chóng về nhà. Vừa vào cửa, hắn đã tươi cười nhìn ta như hiến bảo vật rồi đặt một gói bánh hạt dẻ lên tay ta.
“A tỷ, đây là món tỷ thích nhất, ta mua cho tỷ rồi.”
Ta mỉm cười khen hắn chu đáo.
Nhìn thấy một nhánh hoa giấu đâu đó trên vai áo hắn, ta không khỏi bật cười trêu chọc.
“Bao nhiêu cô nương mến mộ ngươi thế này, sau này ngươi không cần lo chuyện lấy vợ nữa rồi.”
Kỷ Từ vừa mới đây còn cười rạng rỡ, bỗng đờ người, nụ cười trên môi chợt biến mất.
Hắn lặng thinh, uể oải bước sang chỗ khác, rõ ràng là đã tức giận.
Thật kỳ lạ.
Nuôi dưỡng hắn bao năm nay, đây là lần đầu tiên ta thấy hắn giận dỗi trước mặt ta.
Cũng may cơn giận của hắn không kéo dài.
Tối hôm đó, hắn lại trở về làm nguyên bản Kỷ Từ.
Không biết có phải là ảo giác của ta hay không, hắn tựa hồ càng trở nên ân cần hơn.
Hắn làm cả bàn đồ ăn ta yêu thích, còn xoa bóp vai cho ta .
Vài ngày sau, có bà mối tới cửa, muốn thay ta làm mai.
“Thẩm cô nương, vị sai dịch họ Thôi của Kinh Triệu phủ thực sự rất tốt, cô xem bức họa của người này mà xem, khí phách uy nghi, quả là một đôi trời sinh với cô!”
Ta chống cằm suy nghĩ, muốn xem thử bức họa thì đã thấy Kỷ Từ, người thường ngày tính tình hiền lành, bỗng dưng cau mặt, đuổi bà mối ra ngoài.
Ta kinh ngạc hỏi:
“Ngươi biết sai dịch họ Thôi này sao? Hắn không tốt à?”
“Hắn sao xứng với a tỷ của ta.”
Kỷ Từ mím môi, tỏ vẻ không vui.
“A tỷ của ta, không phải ai cũng xứng.”
“…”
Bà mối tuy bị đuổi đi, nhưng vẫn không nản lòng.
Sau đó, bà liên tiếp tới cửa, cho ta xem chân dung của các nam nhân tài giỏi trong thành.
Những lời khen ngợi hoa mỹ đến mức ta đã đôi lần cảm thấy xiêu lòng.
Nhưng lần nào cũng vậy, Kỷ Từ đều kịp thời xuất hiện, “mời” bà mối ra ngoài.
Lần cuối cùng, hắn gần như nghiến răng, cảnh cáo bà mối không được đến nữa.
Ta nhìn mà ngẩn người.
Bà mối đứng trước cửa, tức giận đến mức nhảy dựng lên mà hét:
“Họ Kỷ kia! Ngươi không sợ a tỷ của ngươi không gả được sao? Đến lúc ấy nàng thành bà cô già không ai thèm nữa đấy!”
Kỷ Từ nghiến răng đáp trả:
“Không cần ngươi lo! A tỷ của ta nhất định không phải loại người không ai thèm!”
Ta ở bên cạnh yên lặng gặm hạt dưa, đột nhiên cảm giác rằng, có lẽ ta thực sự sẽ sống độc thân cả đời.