Bà Nội Của Tĩnh Tĩnh - Chương 4
10
Khi tôi học cấp hai, ba tôi đã về thăm hai lần.
Lần đầu, ông đắc ý nói rằng mình đã mua được một căn nhà ở thành phố.
Lần thứ hai, ông lái chiếc xe mới mua, trên vô-lăng treo một tấm ảnh: đó là ảnh chụp chung của ông và cô Trần.
Ông đã có gia đình mới, có nhà, có xe.
Trước mặt tôi, ông nói với bà nội: “Bây giờ chỉ thiếu một đứa cháu trai để mẹ bế nữa thôi.”
Bà nội hất nước trà vào chân ông, đó là lần đầu tiên tôi thấy bà nổi giận: “Nếu không có Tĩnh Tĩnh ở bên mấy năm nay, chắc tôi đã chet ở đây rồi cũng chẳng ai lo. Đẻ con trai thì có ích lợi gì chứ? Con trai để dưỡng già à? Anh nhìn tôi thì biết đấy!”
Hôm đó, ba tôi bỏ về với vẻ bực dọc, còn tôi lặng lẽ dọn dẹp nhà cửa, nhìn bà nội ngồi một mình trên giường, tay cầm bức ảnh cũ của ba khi còn nhỏ với vẻ mặt thẫn thờ.
Sau này, tôi mới nghe bà kể lại những chuyện cũ của bà.
Bà cũng bị gia đình sắp xếp lấy chồng khi mới mười mấy tuổi, ông nội sức khỏe yếu, thường nằm liệt giường, ông bà nội của ba tôi thì lại ăn không ngồi rồi, cả gia đình đều dựa vào một mình bà xoay xở.
Ông nội mất sớm do bệnh, nhưng cũng có những lúc sức khỏe ổn định. Trong thời gian đó, ba tôi được sinh ra, vì là đứa con duy nhất, lại là con trai nên cả nhà vô cùng cưng chiều.
Cưng chiều đến mức nào ư? Ông nội đã đ//ánh bà đến mức m//áu chảy đầm đìa, mẹ chồng của bà nội còn kích động bảo ba tôi: “Sau này con đừng lấy loại vợ như thế này!”
Chỉ vì bà hỏi thêm một câu.
Đó là vào dịp Tết, bà đưa tiền cho ông để đi mua một số đồ dùng trong nhà, nhưng ông lại mang hết tiền đi đánh bạc và thua sạch.
Bà chỉ hỏi: “Anh biết nhà không có tiền, vậy anh đánh bạc hết rồi, chúng ta lấy gì để sống?”
Rồi bà bị đ//ánh. Còn ba tôi thì lại nghe theo lời ông bà nội, không hề bảo vệ mẹ mình.
Vì vậy, tôi cuối cùng cũng hiểu được tại sao bà tôi, một người tốt như vậy, lại có một người con trai như ba tôi.
Bà đã làm hết sức mình. Nhưng cũng thật bất lực trong một hoàn cảnh như vậy.
Sợi dây gai luôn đứt ở chỗ mỏng nhất, và vận xui luôn tìm đến những người khổ nhất.
Vì thế, khi tôi đỗ vào trường trung học trọng điểm của thành phố, bà tôi đã khóc.
Tôi có thể thấy, trong lòng bà, bà rất muốn chỉ cười vui vẻ với tôi, nhưng quá nhiều nỗi đau dồn đến trong khoảnh khắc đó, có lẽ bà cảm thấy cuộc đời chẳng làm được gì của mình cuối cùng đã làm được một việc.
Tôi bước tới ôm chặt lấy bà.
Tôi rất muốn bà biết rằng, bà là người bà tốt nhất trên đời này.
Bà là một người tốt hiếm có trên thế gian.
Bà biết làm bao nhiêu việc, và bà làm tốt bao nhiêu điều.
Bà chưa bao giờ cúi đầu trước cuộc đời, thậm chí rõ ràng đã cho tôi một cuộc đời mới, nhưng chưa bao giờ nói với tôi một lời ràng buộc đạo đức nào.
Bà khiêm nhường đến tột cùng, sự áy náy của bà khiến tôi vô cùng đau lòng.
“Bà ơi, con sẽ học thật tốt ở cấp ba, con nhất định sẽ đỗ vào một trường đại học tốt. Sau này, con sẽ giống ba, mua nhà, mua xe ở thành phố, đến lúc đó con sẽ lái xe, đưa bà đi đây đó.”
Lúc đó, tôi chắc chắn như vậy, tôi nghĩ rằng tất cả mọi thứ sẽ thành hiện thực.
Và thực tế chứng minh là đúng, sau đó tôi đỗ vào một trường đại học 985 với vị trí thứ ba toàn thành phố, rồi học thẳng lên thạc sĩ và tiến sĩ tại trường, sau khi tốt nghiệp tôi chọn được một công việc tốt, chỉ sau vài năm đã có đầy đủ mọi thứ về vật chất.
Nhưng khi đó, khi tôi lái xe về lại căn nhà nhỏ của tôi và bà, thứ duy nhất tôi có thể đưa đi, chỉ còn lại một tấm ảnh cũ đen trắng.
Bà đã vượt qua những ngày tháng khó khăn nhất, nhưng lại không thể trụ thêm dù chỉ một ngày nữa.
11
Sau khi lên cấp ba, tôi đã xin được học bổng trợ cấp và học bổng nhờ thành tích xuất sắc, đủ để tôi trang trải chi phí, nên dưới sự kiên trì của tôi, bà cuối cùng cũng giảm bớt được vài mẫu đất canh tác.
Bà nhất quyết nói rằng sau này tôi còn phải học đại học, nghe nói sinh viên mỗi tháng cần 1.500 tệ sinh hoạt phí, bà cũng sẽ để dành tiền cho tôi theo mức đó.
Nghe bà nói, tôi bật cười, bóp vai bà: “Bà ơi, con không cần nhiều đến vậy đâu. Hơn nữa lúc đó con đã là người lớn rồi, con có thể tự đi làm thêm kiếm tiền, cộng với trợ cấp và học bổng, chắc chắn con không cần phải xin bà tiền sinh hoạt đâu.”
Bà ngoan cố lắc đầu, nói với tôi: “Con gái không thể bị nuôi dưỡng thiếu thốn, con thích gì thì cứ dùng tiền của bà mà mua, bà không muốn sau này con bị người khác coi thường, nhất là gặp phải những người bỏ chút tiền ra tiêu rồi muốn làm bạn trai của con…”
Tôi hiểu những lời bà nói, tôi biết từ tận đáy lòng bà muốn điều tốt nhất cho tôi, nên chỉ ngoan ngoãn gật đầu.
Không ngờ khi nói đến đây, bà dừng lại, thở dài, nhẹ nhàng nắm lấy tay tôi.
Bà cúi đầu, mái tóc bạc như tấm mạng nhện phủ đầy những gian truân, đan xen vào cuộc đời lẽ ra phải hạnh phúc của bà.
“Tĩnh Tĩnh của bà, chắc không dễ bị lừa đâu. Vì nhà mình khó khăn, Tĩnh Tĩnh sớm đã hiểu chuyện, sớm đã…” Bà nghẹn ngào: “sớm đã hiểu chuyện rồi…”
“Bà ơi”, tôi không chịu nổi khi thấy bà khóc, nước mắt cũng tuôn ra như mưa, tôi ôm chặt lấy bà, “con không trách bà đâu, thật sự không hề trách bà…”
“Nếu không có bà, con đã không có ngày hôm nay, con đã chẳng thể sống được đến hôm nay…”
Hôm đó tôi và bà đã ôm nhau khóc nức nở, vừa nhẹ nhõm, vừa xót xa.
Nhưng nếu khóc một trận là có thể giải quyết vấn đề, thì trên đời này đã không còn bao nhiêu nỗi ấm ức và hối tiếc.
Tôi và người chồng sau này của tôi là bạn cùng lớp cấp ba.
Nhưng chúng tôi không yêu sớm, nhà anh ấy cũng ở nông thôn, điều kiện tốt hơn tôi nhiều, anh không khinh thường tôi, ngược lại khi chúng tôi ngồi chung bàn và tôi kể cho anh nghe về cuộc đời mình, anh càng thêm đồng cảm và kính trọng tôi.
Tôi và anh đã hứa với nhau một điều: “Em kể cho anh nghe chuyện của em, không phải để anh thương hại em, cũng không muốn sau này nếu em làm gì đó khiến anh thất vọng, anh sẽ nói ‘anh không trách em’.”
Anh ấy đã ghi nhớ câu này, rất lâu về sau, khi chúng tôi cãi nhau gay gắt đến mức sắp ly hôn, anh cũng chưa bao giờ nói: “Em là đứa không ba mẹ, được bà nội nuôi lớn, bảo sao tính cách em lại cứng rắn như vậy.”
Vì thế, dù có va vấp, chúng tôi vẫn nắm tay nhau vượt qua cả một đời.
Tôi và anh ấy sinh được một cô con gái, tôi đặt tên con là “Thanh Miêu”, giống như hy vọng tươi sáng mà bà đã trao cho tôi.
Đôi mắt của Thanh Miêu rất giống mắt của bà tôi.
Sau này, tôi nói với chồng rằng tôi coi Thanh Miêu như bà nội tái sinh, tôi nhất định sẽ nuôi dưỡng Thanh Miêu thật tốt, như cách bà đã nuôi tôi khôn lớn.
Bà đã cho tôi một cuộc đời tốt đẹp, thậm chí là một cuộc đời hạnh phúc.
12
Năm lớp 12, tôi bận rộn đến mức không có lúc nào thảnh thơi.
Các thầy cô ở thành phố nhiều kinh nghiệm, họ kể cho chúng tôi nghe về Bắc Kinh và Thượng Hải, về Đại học Thanh Hoa, Bắc Đại, Đồng Tế và Giao Đại Thượng Hải.
Trong kỳ nghỉ đông cuối cùng của năm lớp 12, tôi đã gặp lại cô Dương.
Cô vẫn hiền hòa như trước – nhưng tôi nghĩ mẹ tôi chắc chắn không có được sự dịu dàng như thế.
Cô cũng nói rằng với thành tích và trạng thái hiện tại của tôi, nếu duy trì được, chắc chắn tôi có thể vào một trường tốt ở thành phố lớn.
Vì vậy, từ đó cho đến khi kết thúc kỳ thi đại học, tôi không về nhà, chỉ nghĩ đến việc dốc sức học tập, nắm vững mọi kiến thức có thể.
Do đó, tôi không nhận ra rằng, chỉ trong nửa năm đó, sức khỏe của bà tôi đã xuống dốc nhanh chóng.
Nhưng bà vẫn kiên quyết trồng hết 20 mẫu đất, thậm chí còn nuôi thêm 5 con cừu.
Bà nói phải tiết kiệm đủ tiền cho tôi đi học đại học, bà nói nhất định phải cho tôi 1.500 tệ mỗi tháng.
Bà đã làm việc, đã gồng gánh biết bao và bà đã kiệt sức như thế, khi người ta phát hiện ra, bà thậm chí đã ngất xỉu giữa trưa nắng gay gắt trên cánh đồng khoai tây.
Đó là ngày thứ hai tôi thi đại học, mãi sau này tôi mới biết, khi tôi bước vào phòng thi buổi chiều, bà đã được hàng xóm đưa vào bệnh viện.
Nhưng bà không nghe lời khuyên của bác sĩ, dù thế nào cũng không chịu nằm viện, làm sao cũng không đồng ý bỏ tiền chữa bệnh.
Bà còn không cho ai báo tin cho tôi, sau này nghe một người bác họ kể lại, tôi mới biết bà đã nói: “Tôi có thế nào cũng chịu đựng được đến khi Tĩnh Tĩnh vào đại học! Con bé đi xa rồi, tôi mới dám chet!”
Rồi bà chỉ tiêm một mũi không đau không ngứa, xem như là đã điều trị, hôm đó đã lại về nhà làm việc tiếp.
Sau khi tôi về nhà, bà còn ngày ngày nấu những món ngon cho tôi ăn.
Cho đến khi tôi nhận kết quả, điền nguyện vọng và xác nhận được trường đại học, đợi giấy báo nhập học về, bà thậm chí đã tự tay giet con gà trống duy nhất để hầm canh và làm món ngon cho tôi.
Cho đến sáng hôm sau, tôi không nghe tiếng gà gáy nữa, khi trở mình và cảm thấy nghi ngờ, tôi mới nhận ra cũng không nghe thấy tiếng thở của bà.
Lúc đó, đầu tôi như ong ong, tay chân tê cứng, mãi không thể động đậy, tôi liên tục gọi bà: “Bà ơi! Bà ơi…”
Tôi muốn lay bà dậy nhưng lại sợ dùng sức quá mạnh, chỉ dám cố gắng lắc nhẹ cánh tay bà.
Nhưng cho đến khi các bác, các chú trong làng đưa bà lên xe để đưa đến bệnh viện, bà cũng không đáp lại tôi, không nói câu mà ngày nào bà cũng thầm ghé vào tai tôi: “Tĩnh Tĩnh, con đã dậy chưa?”
Bà nhắm mắt thật lâu.
“Bà làm ấm cái bánh bao cho con, phết chút mỡ lợn lên rồi ăn nhé!”
“Bà đun nước nóng rồi, lát nữa con dậy rửa mặt nhé!”
“Bà lấy cho con gói que cay ở quầy tạp hóa, hàng mới về mấy hôm trước đấy, Tĩnh Tĩnh ăn trước, bà mới bán cho người khác!”
Không còn nữa…
Tất cả đều không còn nữa.
Và lời hứa của bà đêm hôm trước rằng khi giấy báo nhập học của tôi đến, bà sẽ làm cho tôi một bữa sủi cảo cũng không còn nữa.
Trong tháng tôi vừa mới bước sang tuổi trưởng thành, tháng mà tôi sắp có thể thay đổi cuộc sống của bà, bà đã rời bỏ tôi mãi mãi.
Bà không để lại cho tôi chút dấu vết gì, chỉ để lại chẩn đoán bệnh từ bệnh viện với hàng loạt nguyên nhân dày đặc.
Tim, não, các cơ quan nội tạng, tứ chi.
Bác sĩ ngạc nhiên hỏi tôi: “Bà cháu bình thường không kêu đau ở đâu à?”
Bà không kêu.
Bà thật sự không kêu.
Vào mùa xuân, bà còn điều khiển hai con lừa để một mình cày ruộng.
Chắc chắn cơn đau đó phải khủng khiếp lắm.
Nhưng cô Dương lại nói, lúc đó đi ngang qua, cô ấy còn thường xuyên nghe bà hát khúc nhạc Kinh kịch và những bài hát cũ đầy hào hùng.
Người phụ nữ già nua ấy với khuôn mặt đỏ tía, đôi bàn tay thô ráp như đá, chưa bao giờ thốt ra một lời kêu đau, ngay cả lúc chet, trên gương mặt bà vẫn mang nụ cười hiền lành.
Rất nhiều người, giống như tôi, đều không thể tin nổi, họ nói: “Bà cụ ngày thường nhìn còn rất khỏe khoắn mà, sao lại ra đi đột ngột như vậy?”
Thật bất ngờ, thậm chí tôi phải hồi tưởng rất lâu mới nhớ ra lời cuối cùng bà nói với tôi…
Ánh trăng sáng trong lành của làng quê rọi qua cửa sổ, dù đã tắt đèn, căn phòng vẫn sáng rực.
Bà quay người, gương mặt hướng về phía tôi, dù không nhìn bà, tôi cũng biết bà cười ngọt ngào đến mức nào.
Bà hỏi tôi: “Tĩnh Tĩnh chỉ đắp mỗi cái chăn mỏng này thôi, có lạnh không con?”
Tôi đáp hơi lạnh, thế là bà kéo chăn của bà sang, đắp thêm lên chăn của tôi.
“Con có lạnh không?”
“Con có đói không?”
Bà chỉ nói vài câu ít ỏi như vậy, trong suốt mười mấy năm qua, cũng chỉ có những câu này.
Nhưng chính những câu nói giản đơn ấy đã chứa đựng toàn bộ sự ấm áp duy nhất trong thời niên thiếu của tôi, dẫn dắt tôi trưởng thành trở thành một người mẹ chu toàn như bà.
Rồi bà đột ngột lấy ra từ dưới gối một chiếc túi nhỏ —— rõ ràng là bà tự khâu, bà nhét nó dưới gối tôi.
“Tĩnh Tĩnh, đây là một chút tiền tiêu vặt, con mang đi mua đồ ăn ngon nhé. Nhớ ăn nhiều thịt vào…”
Một xấp tiền lẻ dày, cộng lại cũng chỉ được 50 tệ.
Trước đó bà đã đưa cho tôi một quyển sổ tiết kiệm, trong đó có 2 vạn. Bà nói toàn bộ đều là để tôi đi học, bao gồm cả số tiền mà ba tôi để lại trước đó. Bà thực sự đã nói và bà đã làm như thế.
Nhưng tôi không ngờ, bà chỉ để lại cho mình 50 tệ để sinh hoạt.
Không, bà còn để lại cho mình một tấm thân đầy bệnh tật.
Điều lo lắng duy nhất của bà chỉ là sợ chet trước khi tôi đi học xa, sợ tôi đau lòng…